Thai phụ ăn gì để con khỏe đẹp và thông minh?

Trước hết, bạn cần đảm bảo chế độ ăn đầy đủ các dưỡng chất cần thiết với tỷ lệ thích hợp. Một số thực phẩm và chất bổ sung nhất định có thể giúp bạn sinh ra những đứa con thông minh, khỏe đẹp.

Bổ sung axit folic trước sinh

Axit folic có vai trò quan trọng trong việc hình thành các tế bào não của bào thai. Vì vậy, bạn nên bổ sung axit folic trước khi sinh. Một số thực phẩm tự nhiên chứa axit folic gồm đậu lăng, rau bina và các loại rau xanh khác.

Thực phẩm giàu axit béo omega-3

Axit béo omega-3 rất cần thiết vì chúng góp phần sản sinh tế bào thần kinh. Axit béo omega-3 có nhiều trong các loại thực phẩm như cá hồi và các loại cá khác, trứng, hạt lanh, quả óc chó, thịt đỏ, rau bina, đậu hũ và ngũ cốc tăng cường sắt.

ăn gì khi mang thai

Hoa quả và rau

Quả việt quất, cà chua, rau xanh và đu đủ chứa nhiều chất chống oxy hóa có tác dụng chống lại các gốc tự do cản trở sự phát triển não của bào thai. Tuy nhiên, đừng quên ngâm rửa sạch sẽ trước khi ăn những thực phẩm này.

Sắt

Khi phụ nữ mang thai bị thiếu sắt, bào thai có thể không được cung cấp đủ oxy, vốn quan trọng cho sự phát triển não của bào thai. Các loại đậu, thịt gà và ngũ cốc là những thực phẩm chứa nguồn sắt tự nhiên bạn nên ăn.

Protein

Hấp thu protein đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bào thai. Bạn nên ăn nhiều sữa chua, đậu và bơ đậu phộng

Duy trì lối sống lành mạnh

Trên tất cả, thai phụ hãy duy trì lối sống lành mạnh vì điều này ảnh hưởng tới cả sự phát triển não và sức khỏe chung của con.

Lưu ý

Mặc dù cá là nguồn omega-3 và các chất dinh dưỡng tốt khác, bạn cần chú ý tới loại cá bạn ăn. Cơ quan Quản lý Thuốc và thực phẩm Mỹ khuyên phụ nữ mang thai nên tránh các loại cá như cá kiếm, cá thu, cá kình vì chúng có hàm lượng thủy ngân cao. Những loại cá có hàm lượng thủy ngân thấp hơn như cá rô phi, cá hồi, cá da trơn tương đối an toàn. Tuy nhiên với những loại cá này bạn cũng chỉ nên ăn 2 bữa mỗi tuần.

BS Thu Vân

(Tổng hợp)

Chăm sóc thai nghén có nguy cơ cao

Việc phát hiện các yếu tố nguy cơ, chẩn đoán xác định và chăm sóc thai nghén đối với những trường hợp phụ nữ có nguy cơ cao khi mang thai là vấn đề rất cần thiết để bảo đảm sự an toàn cho cả mẹ lẫn con.

Phát hiện các yếu tố nguy cơ cao

Thực tế 5 nhóm yếu tố nguy cơ có thể làm ảnh hưởng đến người mẹ trong quá trình mang thai có liên quan đến thai phụ, bệnh tật của người mẹ đã có từ trước, người mẹ có tiền sử thai sản nặng nề, sự ảnh hưởng của xã hội và sự bất thường phát sinh trong thai kỳ cần được phát hiện.

Yếu tố nguy cơ có liên quan đến thai phụ: trước hết phải nói đến độ tuổi của thai phụ, nếu phụ nữ mang thai dưới 16 tuổi sẽ có nguy cơ dễ bị sinh khó, sinh non, tỉ lệ trẻ sinh ra bị tử vong trong thời kỳ chu sinh khá cao; nếu phụ nữ mang thai trên 35 tuổi cũng sẽ có nguy cơ dễ bị sinh khó, rối loạn nhiễm sắc thể, trẻ sơ sinh bị dị dạng và tỉ lệ trẻ tử vong trong thời kỳ chu sinh cũng rất cao. Đồng thời, thể trạng của phụ nữ khi mang thai cũng có ảnh hưởng, nếu phụ nữ quá béo trên 70kg hoặc quá gầy dưới 40kg sẽ tạo nên yếu tố nguy cơ cho người mẹ trong khi chuyển dạ. Ngoài ra, những bất thường về giải phẫu học ở đường sinh dục như phụ nữ có tử cung đôi, tử cung hai sừng, vách ngăn tử cung... dễ gây sinh non; có vách ngăn âm đạo sẽ cản trở thai nhi di chuyển xuống phía dưới khi chuyển dạ.

Chăm sóc thai nghén có nguy cơ caoChăm sóc thai nghén có nguy cơ cao là một yêu cầu cần thiết để mẹ tròn con vuông khi sinh đẻ

Yếu tố nguy cơ có liên quan đến bệnh tật của người mẹ đã có từ trước: các loại bệnh tật mà người mẹ đã mắc từ trước có ảnh hưởng đến quá trình mang thai gồm: tăng huyết áp gây nguy cơ tử vong cho cả người mẹ lẫn thai nhi khi bị tiền sản giật và sản giật. Bệnh thận gây nguy cơ tăng huyết áp mạn tính dẫn đến tiền sản giật và sản giật. Bệnh tim, đặc biệt là bệnh tim có biến chứng cũng sẽ gây tử vong cao cho cả mẹ và con. Bệnh nội tiết như Basedow, đái tháo đường dễ gây biến chứng cho người mẹ và thai nhi như làm cho thai to, thai suy dinh dưỡng, thai chết lưu. Ngoài ra, bệnh do rối loạn hệ miễn dịch, bệnh tạo keo; bệnh ác tính của người mẹ như ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng...; bệnh thiếu máu do suy tủy, hồng cầu lưỡi liềm; bệnh nhiễm khuẩn cấp tính hoặc mạn tính như lao phổi...; bệnh lây truyền qua đường tình dục do chlamydia trachomatis, Herpes sinh dục, HPV (human papilloma virus), lậu, giang mai, HIV (human immunodeficiency virus); bệnh do virút như viêm gan virút, rubella; bệnh do ký sinh trùng như sốt rét, trichomonas âm đạo; bệnh não như viêm não, động kinh, tâm thần...; bệnh nhiễm khuẩn niệu-sinh dục do tụ cầu, E. coli, Proteus; bệnh di truyền có tính chất gia đình như thalassemie, thiếu yếu tố đông máu VII, VIII...; bệnh ngoại khoa do gãy xương chậu, bệnh trĩ, tạo hình bàng quang, chấn thương... cũng làm ảnh hưởng cho cả người mẹ và thai nhi trong quá trình mang thai.

Yếu tố nguy cơ do có tiền sử thai sản nặng nề: nếu người mẹ có tiền sử thai sản nặng nề cũng có ảnh hưởng khá lớn đến sự mang thai gồm: bị sảy thai liên tiếp do bất thường di truyền của hai vợ chồng, thiểu năng nội tiết, bất thường ở tử cung. Trường hợp thai chết lưu cần phát hiện nguyên nhân như u xơ tử cung, bệnh toàn thân do tăng huyết áp, bệnh thận... Bất đồng nhóm máu ABO, yếu tố Rh. Tiền sử sản giật, mổ lấy thai; sinh bằng forcep, giác kéo; đình chỉ thai nghén. Tiền sử sinh non, con dưới 2.500g. Trẻ có dị dạng bẩm sinh, bất thường nhiễm sắc thể rất dễ bị dị dạng ở những lần mang thai sau đó. Các lần sinh đẻ quá gần hoặc quá xa nhau.

Yếu tố nguy cơ có liên quan đến vấn đề xã hội: vấn đề xã hội cũng có liên quan đến yếu tố nguy cơ khi mang thai gồm sự nghèo đói, trình độ văn hóa thấp, ở xa cơ sở y tế, không được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giao thông đi lại không thuận tiện, đời sống sinh hoạt có rất nhiều hạn chế...

Yếu tố nguy cơ do bất thường phát sinh trong thai kỳ: cần lưu ý đến ảnh hưởng bất thường phát sinh trong thời kỳ người mẹ mang thai gồm: đối với người mẹ, chú ý bệnh sốt rét, bệnh thiếu máu, tiền sản giật, giảm tiểu cầu tự miễn trong thời kỳ mang thai, bệnh thận thai nghén, tăng huyết áp thai nghén, đái tháo đường thai ngén, sốt do bệnh lý toàn thân, nhiễm trùng tiết niệu. Đối với thai nhi, chú ý trường hợp ngôi thai bất thường, thai to, thai bất thường, thai suy dinh dưỡng, thai chết lưu, song thai, đa thai. Về phần phụ, chú ý trường hợp nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, nhau bong non, sa dây rốn, u bánh nhau, phù nhau thai, rỉ ối, vỡ ối non, đa ối, thiếu ối.

Khám thực thể để phát hiện thai nghén có nguy cơ cao

Khám toàn trạng để quan sát thể trạng sản phụ, chú ý trường hợp vẹo cột sống, gù lưng; đo chiều cao của sản phụ, nếu chiều cao dưới 145cm thì rất dễ sinh khó; cân nặng nếu tăng khoảng 20% trọng lượng khi có thai là bình thường; ngoài ra đo huyết áp, khám da và niêm mạc, khám vú, khám tim mạch, khám phổi, khám mắt...

Khám chuyên khoa ở vùng khung chậu, khám tử cung cần đo chiều cao, tư thế, phát hiện u xơ; khám âm đạo phát hiện sa sinh dục; khám cổ tử cung phát hiện vết rách, tình trạng viêm nhiễm, tư thế...; khám tầng sinh môn xác định mức độ ngắn, dài, sẹo cũ...; khám phần phụ phát hiện khối u...

Ngoài ra, việc chăm sóc và đánh giá trong quá trình thai nghén cũng rất quan trọng như khám thai định kỳ, xác định vấn đề cần xem xét để duy trì thai nghén và những yếu tố có thể gây biến chứng trong chuyển dạ. Khám thai định kỳ được thực hiện đầy đủ các nội dung quy định như xét nghiệm thường quy nhóm máu, công thức máu, nước tiểu... Từ các dấu hiệu lâm sàng sẽ quyết định xét nghiệm cận lâm sàng để đánh giá nguy cơ như siêu âm để xác định thai nhi sống hay chết, thai dị dạng, số lượng thai, lượng nước ối...; xét nghiệm các bệnh lây truyền từ mẹ sang con gồm HIV, giang mai, viêm gan b; thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán trước sinh gồm double test, triple test hoặc chọc ối nếu có chỉ định; theo dõi nhịp tim thai bằng ống nghe tim thai hoặc monitor sản khoa; test gây cơn go tử cung để xác định tim thai bình thường hay bất thường; đánh giá chỉ số Bishop để chọn cách sinh cho phù hợp; theo dõi những hoạt động sinh hoạt của thai nhi qua siêu âm để thấy thai thở, thai cử động...; phương pháp chẩn đoán bằng X-quang hiện nay ít sử dụng; ngoài ra còn phải thực hiện thêm các xét nghiệm khác nếu cần để thảo luận cùng sản phụ có nên tiếp tục thai nghén hay chấm dứt thai kỳ. Xác định vấn đề cần xem xét để duy trì thai nghén như tình trạng của người mẹ tốt hay xấu, có thể bảo đảm cho một quá trình thai nghén; những thay đổi sinh lý phù hợp, không ảnh hưởng đến sức khỏe của người mẹ về tim, mạch, huyết áp...; chiều cao tử cung phù hợp với tuổi thai; không có thai nghén bất thường gồm thai trứng, thai ngoài tử cung...; thai máy ở nửa sau của thai kỳ, tim thai nghe đều rõ; nếu có nhau tiền đạo có biểu hiện không ra máu hoặc máu ra ít; tiền sản giật không nặng lên, có thể duy trì nếu đáp ứng với điều trị; nếu có nhiễm khuẩn cần điều trị tích cực cho thai phụ khỏi trước khi chuyển dạ, không để lại nguy cơ cho cả mẹ và con; dự kiến ngày sinh chính xác, tránh trường hợp thai già tháng. Những yếu tố có thể gây biến chứng trong chuyển dạ kể cả trường hợp thai đủ tháng, non tháng hay già tháng cũng đều có khả năng xảy ra như: bệnh của người mẹ gồm tăng huyết áp, bệnh tim, bệnh gan, lao phổi, hen phế quản, Basedow có khả năng gây sản giật, suy tim, phù phổi cấp, hôn mê gan; rối loạn cơn co tử cung với tính chất cường tính, không đều...; cổ tử cung mở ra không tiến triển; người mẹ rặn sinh yếu, chuyển dạ kéo dài; chỉ định can thiệp sản khoa không đúng về sử dụng forceps, sử dụng oxytocin; ngôi thai bất thường gồm ngôi trán, ngôi vai...; suy thai, thai non tháng và nhẹ cân; bất thường về dây rốn gồm dây rốn ngắn, dây rốn quấn cổ, sa dây rốn...; đa ối, thiếu ối, ối vỡ non, ối vỡ sớm, nhiễm khuẩn ối.

Các xét nghiệm cận lâm sàng

Gồm các xét nghiệm thường quy và xét nghiệm cận lâm sàng để đánh giá nguy cơ từ những dấu hiệu lâm sàng được phát hiện như đã nêu ở trên. Khám thai định kỳ được thực hiện đầy đủ các nội dung quy định như xét nghiệm thường quy nhóm máu,

Phát hiện các yếu tố nguy cơ cao

Thực tế 5 nhóm yếu tố nguy cơ có thể làm ảnh hưởng đến người mẹ trong quá trình mang thai có liên quan đến thai phụ, bệnh tật của người mẹ đã có từ trước, người mẹ có tiền sử thai sản nặng nề, sự ảnh hưởng của xã hội và sự bất thường phát sinh trong thai kỳ cần được phát hiện.

Yếu tố nguy cơ có liên quan đến thai phụ: trước hết phải nói đến độ tuổi của thai phụ, nếu phụ nữ mang thai dưới 16 tuổi sẽ có nguy cơ dễ bị sinh khó, sinh non, tỉ lệ trẻ sinh ra bị tử vong trong thời kỳ chu sinh khá cao; nếu phụ nữ mang thai trên 35 tuổi cũng sẽ có nguy cơ dễ bị sinh khó, rối loạn nhiễm sắc thể, trẻ sơ sinh bị dị dạng và tỉ lệ trẻ tử vong trong thời kỳ chu sinh cũng rất cao. Đồng thời, thể trạng của phụ nữ khi mang thai cũng có ảnh hưởng, nếu phụ nữ quá béo trên 70kg hoặc quá gầy dưới 40kg sẽ tạo nên yếu tố nguy cơ cho người mẹ trong khi chuyển dạ. Ngoài ra, những bất thường về giải phẫu học ở đường sinh dục như phụ nữ có tử cung đôi, tử cung hai sừng, vách ngăn tử cung... dễ gây sinh non; có vách ngăn âm đạo sẽ cản trở thai nhi di chuyển xuống phía dưới khi chuyển dạ.

Yếu tố nguy cơ có liên quan đến bệnh tật của người mẹ đã có từ trước: các loại bệnh tật mà người mẹ đã mắc từ trước có ảnh hưởng đến quá trình mang thai gồm: tăng huyết áp gây nguy cơ tử vong cho cả người mẹ lẫn thai nhi khi bị tiền sản giật và sản giật. Bệnh thận gây nguy cơ tăng huyết áp mạn tính dẫn đến tiền sản giật và sản giật. Bệnh tim, đặc biệt là bệnh tim có biến chứng cũng sẽ gây tử vong cao cho cả mẹ và con. Bệnh nội tiết như Basedow, đái tháo đường dễ gây biến chứng cho người mẹ và thai nhi như làm cho thai to, thai suy dinh dưỡng, thai chết lưu. Ngoài ra, bệnh do rối loạn hệ miễn dịch, bệnh tạo keo; bệnh ác tính của người mẹ như ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng...; bệnh thiếu máu do suy tủy, hồng cầu lưỡi liềm; bệnh nhiễm khuẩn cấp tính hoặc mạn tính như lao phổi...; bệnh lây truyền qua đường tình dục do chlamydia trachomatis, herpes sinh dục, HPV (human papilloma virus), lậu, giang mai, HIV (human immunodeficiency virus); bệnh do virút như viêm gan virút, rubella; bệnh do ký sinh trùng như sốt rét, trichomonas âm đạo; bệnh não như viêm não, động kinh, tâm thần...; bệnh nhiễm khuẩn niệu-sinh dục do tụ cầu, E. coli, Proteus; bệnh di truyền có tính chất gia đình như thalassemie, thiếu yếu tố đông máu VII, VIII...; bệnh ngoại khoa do gãy xương chậu, bệnh trĩ, tạo hình bàng quang, chấn thương... cũng làm ảnh hưởng cho cả người mẹ và thai nhi trong quá trình mang thai.

Yếu tố nguy cơ do có tiền sử thai sản nặng nề: nếu người mẹ có tiền sử thai sản nặng nề cũng có ảnh hưởng khá lớn đến sự mang thai gồm: bị sảy thai liên tiếp do bất thường di truyền của hai vợ chồng, thiểu năng nội tiết, bất thường ở tử cung. Trường hợp thai chết lưu cần phát hiện nguyên nhân như u xơ tử cung, bệnh toàn thân do tăng huyết áp, bệnh thận... Bất đồng nhóm máu ABO, yếu tố Rh. Tiền sử sản giật, mổ lấy thai; sinh bằng forcep, giác kéo; đình chỉ thai nghén. Tiền sử sinh non, con dưới 2.500g. Trẻ có dị dạng bẩm sinh, bất thường nhiễm sắc thể rất dễ bị dị dạng ở những lần mang thai sau đó. Các lần sinh đẻ quá gần hoặc quá xa nhau.

Yếu tố nguy cơ có liên quan đến vấn đề xã hội: vấn đề xã hội cũng có liên quan đến yếu tố nguy cơ khi mang thai gồm sự nghèo đói, trình độ văn hóa thấp, ở xa cơ sở y tế, không được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giao thông đi lại không thuận tiện, đời sống sinh hoạt có rất nhiều hạn chế...

Yếu tố nguy cơ do bất thường phát sinh trong thai kỳ: cần lưu ý đến ảnh hưởng bất thường phát sinh trong thời kỳ người mẹ mang thai gồm: đối với người mẹ, chú ý bệnh sốt rét, bệnh thiếu máu, tiền sản giật, giảm tiểu cầu tự miễn trong thời kỳ mang thai, bệnh thận thai nghén, tăng huyết áp thai nghén, đái tháo đường thai ngén, sốt do bệnh lý toàn thân, nhiễm trùng tiết niệu. Đối với thai nhi, chú ý trường hợp ngôi thai bất thường, thai to, thai bất thường, thai suy dinh dưỡng, thai chết lưu, song thai, đa thai. Về phần phụ, chú ý trường hợp nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, nhau bong non, sa dây rốn, u bánh nhau, phù nhau thai, rỉ ối, vỡ ối non, đa ối, thiếu ối.

Khám thực thể để phát hiện thai nghén có nguy cơ cao

Khám toàn trạng để quan sát thể trạng sản phụ, chú ý trường hợp vẹo cột sống, gù lưng; đo chiều cao của sản phụ, nếu chiều cao dưới 145cm thì rất dễ sinh khó; cân nặng nếu tăng khoảng 20% trọng lượng khi có thai là bình thường; ngoài ra đo huyết áp, khám da và niêm mạc, khám vú, khám tim mạch, khám phổi, khám mắt...

Khám chuyên khoa ở vùng khung chậu, khám tử cung cần đo chiều cao, tư thế, phát hiện u xơ; khám âm đạo phát hiện sa sinh dục; khám cổ tử cung phát hiện vết rách, tình trạng viêm nhiễm, tư thế...; khám tầng sinh môn xác định mức độ ngắn, dài, sẹo cũ...; khám phần phụ phát hiện khối u...

Chăm sóc thai nghén có nguy cơ caoSiêu âm để xác định thai nhi sống hay chết, thai dị dạng, số lượng thai, lượng nước ối...

Ngoài ra, việc chăm sóc và đánh giá trong quá trình thai nghén cũng rất quan trọng như khám thai định kỳ, xác định vấn đề cần xem xét để duy trì thai nghén và những yếu tố có thể gây biến chứng trong chuyển dạ. Khám thai định kỳ được thực hiện đầy đủ các nội dung quy định như xét nghiệm thường quy nhóm máu, công thức máu, nước tiểu... Từ các dấu hiệu lâm sàng sẽ quyết định xét nghiệm cận lâm sàng để đánh giá nguy cơ như siêu âm để xác định thai nhi sống hay chết, thai dị dạng, số lượng thai, lượng nước ối...; xét nghiệm các bệnh lây truyền từ mẹ sang con gồm HIV, giang mai, viêm gan B; thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán trước sinh gồm double test, triple test hoặc chọc ối nếu có chỉ định; theo dõi nhịp tim thai bằng ống nghe tim thai hoặc monitor sản khoa; test gây cơn go tử cung để xác định tim thai bình thường hay bất thường; đánh giá chỉ số Bishop để chọn cách sinh cho phù hợp; theo dõi những hoạt động sinh hoạt của thai nhi qua siêu âm để thấy thai thở, thai cử động...; phương pháp chẩn đoán bằng X-quang hiện nay ít sử dụng; ngoài ra còn phải thực hiện thêm các xét nghiệm khác nếu cần để thảo luận cùng sản phụ có nên tiếp tục thai nghén hay chấm dứt thai kỳ. Xác định vấn đề cần xem xét để duy trì thai nghén như tình trạng của người mẹ tốt hay xấu, có thể bảo đảm cho một quá trình thai nghén; những thay đổi sinh lý phù hợp, không ảnh hưởng đến sức khỏe của người mẹ về tim, mạch, huyết áp...; chiều cao tử cung phù hợp với tuổi thai; không có thai nghén bất thường gồm thai trứng, thai ngoài tử cung...; thai máy ở nửa sau của thai kỳ, tim thai nghe đều rõ; nếu có nhau tiền đạo có biểu hiện không ra máu hoặc máu ra ít; tiền sản giật không nặng lên, có thể duy trì nếu đáp ứng với điều trị; nếu có nhiễm khuẩn cần điều trị tích cực cho thai phụ khỏi trước khi chuyển dạ, không để lại nguy cơ cho cả mẹ và con; dự kiến ngày sinh chính xác, tránh trường hợp thai già tháng. Những yếu tố có thể gây biến chứng trong chuyển dạ kể cả trường hợp thai đủ tháng, non tháng hay già tháng cũng đều có khả năng xảy ra như: bệnh của người mẹ gồm tăng huyết áp, bệnh tim, bệnh gan, lao phổi, hen phế quản, Basedow có khả năng gây sản giật, suy tim, phù phổi cấp, hôn mê gan; rối loạn cơn co tử cung với tính chất cường tính, không đều...; cổ tử cung mở ra không tiến triển; người mẹ rặn sinh yếu, chuyển dạ kéo dài; chỉ định can thiệp sản khoa không đúng về sử dụng forceps, sử dụng oxytocin; ngôi thai bất thường gồm ngôi trán, ngôi vai...; suy thai, thai non tháng và nhẹ cân; bất thường về dây rốn gồm dây rốn ngắn, dây rốn quấn cổ, sa dây rốn...; đa ối, thiếu ối, ối vỡ non, ối vỡ sớm, nhiễm khuẩn ối.

Các xét nghiệm cận lâm sàng

Gồm các xét nghiệm thường quy và xét nghiệm cận lâm sàng để đánh giá nguy cơ từ những dấu hiệu lâm sàng được phát hiện như đã nêu ở trên. Khám thai định kỳ được thực hiện đầy đủ các nội dung quy định như xét nghiệm thường quy nhóm máu, công thức máu, nước tiểu... Từ các dấu hiệu lâm sàng sẽ quyết định xét nghiệm cận lâm sàng để đánh gia nguy cơ như siêu âm để xác định thai nhi sống hay chết, thai dị dạng, số lượng thai, lượng nước ối...; xét nghiệm các bệnh lây truyền từ mẹ sang con gồm HIV, giang mai, viêm gan B; thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán trước sinh gồm double test, triple test hoặc chọc ối nếu có chỉ định; theo dõi nhịp tim thai bằng ống nghe tim thai hoặc monitor sản khoa; test gây cơn co tử cung để xác định tim thai bình thường hay bất thường; đánh gia chỉ số Bishop để chọn cách sinh cho phù hợp; theo dõi những hoạt động sinh hoạt của thai nhi qua siêu âm để thấy thai thở, thai cử động...; phương pháp chẩn đoán bằng X quang hiện nay ít sử dụng.

Đánh giá thai nhi trong chuyển dạ và chăm sóc thai có nguy cơ cao

Trong lúc chuyển dạ, cần đánh giá nguy cơ thai nhi căn cứ vào nhịp tim thai; tim thai và cơn co tử cung trên máy monitoring như DIP I, DIP II, DIP biến đổi...; tình trạng phân su, tính chất nước ối.

Chăm sóc thai nghén có nguy cơ cao về nguyên tắc nếu tuyến xã phát hiện được thì phải chuyển sản phụ lên tuyến quận, huyện, thị xã, thành phố. Tuyến quận, huyện, thị xã, thành phố phải tùy theo từng trường hợp và tùy theo khả năng chuyên môn cũng như trang thiết bị hiện có mà quyết định giữ thai phụ tại cơ sở để điều trị hoặc gửi lên tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Lưu ý cũng cần tôn trọng nguyên tắc như không để xảy ra tai biến rồi mới đình chỉ thai nghén, nên đình chỉ thai nghén để cứu sống người mẹ khi cần thiết, điều trị thai suy kịp thời và tích cực điều trị trẻ sơ sinh bị ngạt thở. Biện pháp chung là quản lý thai nghén để sớm xác định các yếu tố nguy cơ, đình chỉ thai nghén nếu có chỉ định bằng biện pháp sản khoa phù hợp; thực hiện việc chăm sóc và đánh giá mức độ thai nghén nguy cơ với phương châm cứu người mẹ là chính, cố gắng bảo tồn bào thai. Biện pháp riêng là điều trị nội khoa các bệnh nội khoa của sản phụ như bệnh tim, phổi, nội tiết...; điều trị ngoại khoa như cắt bỏ u xơ, khâu vòng cổ tử cung...; cai nghiện thuốc lá, ma túy...; nghỉ ngơi tại giường; dùng thuốc giảm co, corticoid giúp cho phổi thai trưởng thành sớm; đình chỉ thai nghén để cứu người mẹ trong một số trường hợp.

BS. NGUYỄN TR M ANH

Viêm bàng quang cấp dễ gặp ở thai phụ

Bệnh hay gặp hơn ở phụ nữ mang thai và phụ nữ mãn kinh do ảnh hưởng của những biến đổi nội tiết tố.

Mùa hè sắp đến thời tiết nóng, ẩm cũng là một trong những yếu tố gây bệnh khi cơ thể tiết nhiều mồ hôi nhưng lại đi tiểu ít đi.

Biểu hiện viêm bàng quang

Dấu hiệu và biểu hiện của bệnh có thể là cảm giác buồn tiểu thường xuyên hơn, mót đi tiểu nhưng chỉ có thể tiểu nhỏ giọt, tiểu ngập ngừng, ngắt quãng, phải rặn tiểu hoặc nhỏ giọt nước tiểu cuối bãi; Cảm giác nóng rát khi đi tiểu, cảm thấy hay buồn đi tiểu, tiểu ít, nước tiểu đục, nước tiểu có mùi khai hơn hay mùi khó chịu, đôi khi nước tiểu đục, tiểu đau, tiểu buốt, đi tiểu nhiều lần hơn; Cơ thể có thể không sốt nhưng người mệt mỏi, đau ở vùng chậu và bụng…

Một số trường hợp nước tiểu trào ngược từ bàng quang lên niệu quản và thậm chí tới cả thận. Hiện tượng buồn nôn, đau vùng thắt lưng và sốt có thể là những dấu hiệu của nhiễm khuẩn thận; Nếu không được điều trị kịp thời thì viêm bàng quang có thể dẫn đến viêm thận - bể thận cấp.

Viêm thận - bể thận cấp sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và bé. Người mẹ dễ bị choáng, sốc nhiễm khuẩn gây suy tuần hoàn, suy hô hấp cấp, suy thận cấp...; thai nhi dễ bị suy thai, sinh thiếu tháng...Bệnh cảnh này thường gặp trên người có tiền sử viêm thận - bể thận do sỏi, có viêm bàng quang do sỏi, hoặc dị dạng đường tiết niệu từ trước khi mang thai mà không biết, nay gặp điều kiện mà phát bệnh.

Trái cây và nước rau ép giàu vitamin C giúp tăng sức đề kháng chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh.

Trái cây và nước rau ép giàu vitamin C giúp tăng sức đề kháng chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh.

Nguyên nhân gây bệnh

Cấu tạo của cơ quan sinh dục phụ nữ phức tạp. Niệu đạo của phụ nữ (dài 4cm) ngắn hơn so với nam giới (20cm) nên vi khuẩn dễ dàng đi ngược dòng vào bàng quang; niệu đạo lại nằm gần trực tràng, vi khuẩn từ đây có thể đi vào niệu đạo và gây nhiễm khuẩn đường tiểu. Niệu đạo nằm cạnh âm đạo, do đó hoạt động tình dục cũng là yếu tố đẩy vi khuẩn ngược dòng vào bàng quang.

Đường niệu của người mang thai có những đặc điểm không bình thường do khối lượng tử cung lớn chèn ép vào bàng quang và niệu quản gây giãn niệu quản, ứ đọng nước tiểu hoặc giãn đài bể thận do sự trào ngược nước tiểu. Nước tiểu ứ đọng gây giảm độ đặc, có hiện tượng chuyển ngược dòng bàng quang - niệu quản, lượng đường trong nước tiểu tăng, progestin và estrogen niệu tăng… Đây là những yếu tố thuận lợi gây viêm bàng quang cấp khi mang thai.

Nguyên nhân do dùng thuốc, tác dụng phụ của thuốc cản trở việc bài tiết - nước tiểu đọng lại trong bàng quang. Khi bàng quang hoạt động kém và nước tiểu không thoát đi hết dễ bị chảy ngược lại niệu quản. Nước tiểu càng ở lại lâu trong đường niệu, nguy cơ vi khuẩn sinh sôi càng lớn, do vậy tăng nguy cơ nhiễm khuẩn. Vệ sinh sơ sài hoặc quá kỹ cũng là yếu tố nguy cơ khiến các vi khuẩn sản sinh nhanh. Hay như việc sử dụng thường xuyên các chất diệt khuẩn, các sản phẩm vệ sinh, sử dụng vòi hoa sen xịt trực tiếp vào âm đạo cũng làm mất cân bằng vi khuẩn, tiêu diệt luôn cả vi khuẩn có ích. Một nguyên nhân ít ai nghĩ đến nữa là đồ lót quá chật làm tăng nhiệt độ cơ thể, làm ẩm vùng kín, tạo điều kiện cho các vi khuẩn cư trú và phát triển.

Sự rối loạn cân bằng nội tiết tố (estrogen) khi mang thai là một trong các nguyên nhân gây viêm bàng quang. Sự thiếu hụt nội tiết tố làm niêm mạc niệu đạo và âm đạo bất ổn định, hệ vi khuẩn lành trong âm đạo mất thăng bằng, một số vi khuẩn tăng sinh có thể gây bệnh cho niêm mạc niệu đạo.

Phòng ngừa và điều trị thế nào?

Viêm bàng quang cấp hay viêm đài - bể thận cấp cần được phát hiện và điều trị sớm. Trong mọi trường hợp, cần tránh dùng các kháng sinh có hại cho thai. Viêm bàng quang ở thai phụ phải dùng kháng sinh tới 7-10 ngày do khi mang thai, vi khuẩn có điều kiện thuận lợi để phát triển, trong khi cơ thể thì giảm sức đề kháng với vi khuẩn. Nếu điều trị ngắn ngày, bệnh sẽ dễ bị tái phát, khi đó sẽ phải dùng kháng sinh liều cao hơn.

Bên cạnh đó, viêm bàng quang là căn bệnh hay tái phát, do đó để phòng ngừa, thai phụ cần chú ý thực hiện các biện pháp đơn giản như sau:

Uống đủ nước, mỗi ngày nên uống từ 1,5 - 2 lít nước. Nước sẽ giúp cơ thể bài tiết tốt, tránh ứ đọng nước tiểu ở bàng quang. Cố gắng đi tiểu đều đặn và không nhịn tiểu lâu gây ra hiện tượng ứ đọng nước tiểu ở bàng quang; Vệ sinh vùng sinh dục hàng ngày 1 -2 lần. Lựa chọn các sản phẩm vệ sinh thích hợp cho cơ quan sinh dục để không làm mất cân bằng hệ vi sinh ở âm đạo. Không nên xịt nước hoặc cho tay vào âm đạo. Không nên dùng nước hoa hay các chất khử mùi ở cơ quan sinh dục. Thay đồ lót hằng ngày, nhất là buổi tối trước khi ngủ. Vệ sinh sau khi đi cầu nên rửa từ trước ra sau để tránh vi khuẩn từ hậu môn vào cơ quan sinh dục. Đồ lót nên chọn loại làm bằng sợi bông, thoáng và hạn chế ra mồ hôi để tránh ẩm ướt. Đi tiểu sau quan hệ tình dục: trong quá trình giao hợp, niệu đạo là ống nhỏ dẫn nước tiểu từ bàng quang thường mở rất rộng, do đó sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn có sẵn tại khu vực âm đạo có cơ hội đi ngược lên; Phản xạ tiểu tiện sau mỗi lần giao hợp sẽ giúp thải ngay lập tức những mầm bệnh trước khi chúng kịp vào trong bàng quang; Tăng sức đề kháng bằng cách ăn uống đầy đủ và cân đối, bổ sung rau xanh và trái cây giàu vitamin C. Khi hệ miễn dịch của cơ thể khỏe mạnh sẽ góp phần chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh.

ThS. BS. Lê Thị Hương

Các bệnh tuyến vú lành tính

Kể từ thời điểm phát triển đến khi mang thai và mãn kinh vú của người phụ nữ thay đổi liên tục. Nhiều thay đổi lành tính của vú có thể cần phải điều trị hoặc không. Tuy nhiên cũng không nên quá chủ quan khi thấy bất kỳ một thay đổi nào khác trên vú mà không có sự tư vấn hay thăm khám của các chuyên gia sản phụ khoa.

Bất kỳ khối u nào trong vú cũng gây ra sự lo lắng cho người phụ nữ, nhưng không có nghĩa là tất cả các khối u là ung thư. Các biến đổi lành tính của tuyến vú là rất phổ biến.

Bệnh lý này thường phát sinh từ các thành phần cấu tạo nên vú: biểu mô ống dẫn sữa, hoặc ở mô liên kết và mô mỡ. Có thể phân loại các bệnh lý lành tính tuyến vú làm 4 nhóm: Nhóm bệnh bẩm sinh hay phát triển bất thường của tuyến vú: tật thiếu núm vú, phì đại tuyến vú... Nhóm bệnh do nguyên nhân chấn thương và viêm nhiễm: Áp xe vú, lao tuyến vú, hoại tử mỡ .... Nhóm bệnh liên quan đến các ống tuyến sữa: Xơ nang tuyến vú, nang vú, u nhú trong ống dẫn sữa, giãn ống tuyến sữa... Nhóm bệnh liên quan đến tổ chức liên kết của tuyến vú: u xơ tuyến, u mỡ, u bạch huyết…Trong bài viết này chúng tôi xin nêu ra một số bệnh tuyến vú lành tính thường gặp.

Tuyến vú.

Xơ nang tuyến vú

Đây là dạng bệnh lý phụ thuộc hormon, hay gặp ở giữa lứa tuổi 30 - 50. Các triệu chứng mất đi sau mãn kinh. Nguyên nhân là do mất cân bằng nội tiết giữa estrogen và progesteron trong một thời gian dài, tổ chức vú trải qua nhiều thay đổi hình thái khác nhau. Vào thời điểm tăng tiết estrogen, các tế bào biểu mô tăng sinh trong các ống (tăng sinh ống) và các phân thùy (tăng sinh tuyến). Với mức estrogen giảm, biểu mô cuộn xoắn, các ống trở thành nang, các phân thùy và vùng đệm tăng tổ chức xơ (tăng biểu mô tuyến xơ cứng và xơ cứng vùng đệm).

Trên lâm sàng bệnh nhân thường đau vú theo chu kỳ: xuất hiện khoảng 8 ngày trước khi hành kinh, biến mất sau hành kinh, đau tự nhiên, lan ra hai tay. Khi sờ nó có thể là các u nang đặc trưng: Khối u tròn, giới hạn rõ, hơi cứng, thường đau, kích thước và số lượng thay đổi; Hay là các mảng cứng: thường thấy những mảng cứng trên vú giới hạn không rõ, mất đi sau hành kinh.

Đây là bệnh lý hình thành từ việc tăng sinh các tuyến và ống tuyến vú (kết hợp với xơ hóa mô đệm) nên có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Vì vậy khi có chẩn đoán xơ nang tuyến vú thì nên có những thăm dò như: chụp vú, chọc dịch nang, chọc hút tế bào để có những sàng lọc ung thư sớm.

Có thể bắt đầu điều trị bằng thuốc nếu bệnh nhân cảm thấy khó chịu và mong muốn được điều trị. Các thuốc hay dùng: thuốc ức chế prolactin như bromocriptine, thuốc ức chế estrogen như danazol. Phẫu thuật cắt khối u được đặt ra khi: chọc dò ra lẫn máu, sinh thiết thấy loạn sản hoặc có tế bào nghi ngờ.

U xơ tuyến

Khối u phát triển từ mô liên kết giữa các tiểu thùy. Thường xảy ra trước tuổi 35. Khối u có đặc điểm: Chắc, xơ, đều, tròn hoặc hình trứng, di động dưới da, không đau, không liên quan tới chu kỳ kinh. Kích thước thay đổi khoảng 2 - 3cm, thường chỉ có một u, đôi khi có nhiều u và xuất hiện kế tiếp theo thời gian. Đây là loại u dễ chẩn đoán trong các u lành tính tuyến vú, bệnh nhân cũng có thể nhận biết đặc điểm khối u một cách dễ dàng, còn bác sĩ có thể chẩn đoán ngay khi khám lâm sàng. Siêu âm và chụp vú ít có giá trị chẩn đoán trong trường hợp này. Tuy nhiên cũng nên chọc lấy tế bào bằng kim sinh thiết nhỏ giúp khẳng định chẩn đoán và loại trừ ung thư. U xơ tuyến không tạo nên yếu tố nguy cơ gây ung thư, thường ổn định và không đáp ứng với điều trị nội tiết. Vậy nên có u xơ trước 35 tuổi chúng ta có thể theo dõi định kỳ mỗi 6 tháng. Phẫu thuật cắt bỏ khối u để làm giải phẫu bệnh được đặt ra khi khối u to và phát triển nhanh, chọc tế bào nghi ngờ hoặc sau 35 tuổi.

Nang vú

Nang là một hốc chứa đầy chất dịch. Hốc này xuất hiện do một đoạn của ống dẫn sữa nở ra. Phần lớn người bệnh tự phát hiện thấy khi nằm sấp đè lên ngực hay chà xát trong lúc tắm, vì những lúc đó nang vú căng lên. Nhưng có khi các nang này lại không đau và cũng không thể sờ thấy được.

Số lượng nang nhiều hay ít tùy người, kích thước lớn nhỏ không đều, đường kính từ vài mm đến vài cm, hoặc to hơn, to đến một mức nào đó hoặc nằm sát dưới da mới sờ thấy. Các nang này thường hay gặp ở phụ nữ trên 40 tuổi, hiếm gặp ở phụ nữ dưới 30 tuổi, nhưng sau khi mãn kinh nang sẽ xẹp đi. Khi nghi là nang vú, nên đi khám bác sĩ chuyên khoa. Hiện nay, siêu âm giúp cho bác sĩ chẩn đoán bệnh nang vú chính xác. Bác sĩ sẽ dùng kim chọc rút dịch trong nang. Khi rút dịch, nang sẽ xẹp đi và hiếm khi tái phát lại. Chọc hút dịch nang có màu vàng chanh hoặc nâu. Nếu dịch hút ra là máu thì phải sinh thiết sau hút dịch để loại trừ ung thư, sau chọc hút nếu nang tái phát thì phải hút lại và điều trị phẫu thuật bóc nang.

U nhú trong ống dẫn sữa

Đây là một trong những nguyên nhân gây tiết dịch núm vú ngoài thời kỳ cho con bú. Do sự tăng sinh biểu mô trung tâm trên trục liên kết tuyến và phát triển tạo nên các u nhú trong lòng ống dẫn sữa. Triệu chứng thường gặp trong thể bệnh này là tiết dịch hoặc máu tự nhiên một hoặc hai bên vú, ép xung quanh quầng vú có thể thấy dịch chảy ra từ núm vú. U nhú trong ống dẫn sữa thường lành tính. Tuy nhiên cũng cần có những thăm dò như chụp X quang nhằm loại trừ ung thư vú, chụp ống dẫn sữa để chẩn đoán: sau khi tiêm chất cản quang vào ống dẫn sữa, sẽ thấy ống dẫn sữa bị tắc và u nhú trong ống dẫn sữa. Khi được chẩn đoán là u nhú trong ống sữa giãn thì phẫu thuật cắt khối u làm giải phẫu bệnh là phương pháp điều trị chủ yếu. Người ta có thể đánh dấu khối u trước mổ bằng cách tiêm xanhmethylen.

Ngoài ra, còn có những bệnh lành tính khác có thể gây tiết dịch núm vú như: Giãn hoặc xơ nang ống tuyến, tăng tiết sữa kết hợp với vô kinh, vô sinh, Papilloma ống tuyến. Bệnh nhân khi thấy chảy dịch hay máu qua núm vú thường lo sợ rằng mình có thể bị ung thư, tuy nhiên phần lớn trường hợp ở tuổi dưới 30 là có nguyên nhân lành tính. Trong các trường hợp này, nên xét nghiệm tìm tế bào lạ từ chất dịch và làm siêu âm vú. Thấy có gì khả nghi thì cần phẫu thuật. Nên nhớ khả năng bị ung thư rất hiếm gặp. Và nếu có ung thư thì trường hợp này cũng dễ điều trị vì u còn nhỏ.

Áp xe vú.

Áp - xe vú

Thường gặp ở các bà mẹ trẻ sinh con và cho con bú lần đầu. Dấu hiệu lâm sàng phụ thuộc vào vị trí, giai đoạn bệnh: giai đoạn viêm, bệnh thường khởi phát đột ngột với sốt cao, mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ, vú tấy đỏ lan tỏa, chắc và đau. Giai đoạn này thường kéo dài từ 1 đến 2 tuần sau đó sẽ chuyển sang giai đoạn hình thành khối áp - xe chứa mủ. Một điều mà các bác sĩ hay làm là điều trị kháng sinh tích cực trong giai đoạn viêm để tránh trường hợp nhiễm trùng nhiễm độc nặng hơn, đồng thời để khu trú khối áp - xe. Trích rạch da và tháo dẫn lưu mủ kết hợp sử dụng kháng sinh là phương pháp điều trị cho ổ áp - xe vú. Để phòng tránh áp-xe vú trong thời kỳ cho bú cần giữ gìn vệ sinh tốt vùng vú trước và sau khi cho con bú. Cho trẻ bú đúng cách, không cho ngậm nhai vú lâu. Tránh làm xây xát, rạn nứt đầu núm vú, tránh ứ đọng sữa, tắc sữa.

Hoại tử mô mỡ

Hoại tử mỡ của vú là một quá trình viêm vô trùng lành tính của các mô mỡ. Nó có thể xảy ra thứ phát sau chấn thương do tai nạn hoặc phẫu thuật, hoặc có thể liên quan với ung thư hay bất kỳ tổn thương mà gây nên mủ hoặc hoại tử thoái hóa khác. Trên lâm sàng, hoại tử mỡ có thể có triệu chứng giống ung thư vú nếu nó xuất hiện như một khối dày đặc kết hợp với co rút da, bầm máu, ban đỏ, và da dày. X quang vú, kết quả siêu âm và chụp cộng hưởng từ không phải luôn phân biệt được hình ảnh của hoại tử chất béo từ một mô ác tính. Ngay cả sự xuất hiện của tổn thương lành tính trên hình ảnh cũng không thể loại trừ được là có bị ác tính hay không. Vậy nên trong tổn thương này cần phải chích lấy khối hoại tử làm giải phẫu bệnh loại trừ ung thư, sau đó điều trị nội khoa bằng các thuốc kháng estrogen.

TS. Vũ Văn Du

Cảnh báo sớm về ung thư buồng trứng

Bệnh nguy hiểm nhưng những triệu chứng lại rất âm thầm và khó phát hiện ở giai đoạn đầu. Ung thư buồng trứng có thể xảy ra ở bất cứ đối tượng nào. Tuy nhiên, những chị em thừa cân, béo phì hoặc chưa từng sinh đẻ và những trường hợp có người thân bị bệnh… sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Những biểu hiện sớm của ung thư buồng trứng

Thường xuyên đau lưng: Đây là triệu chứng tiền kinh nguyệt mà rất nhiều trường hợp nữ giới gặp phải. Dấu hiệu này cũng đáng cẩn trọng với căn bệnh ung thư buồng trứng.

Đau bụng dưới hoặc vùng chậu: Hiện tượng đau bụng dưới có thể là do sự co bóp cổ tử cung gây ra. Phụ nữ độ tuổi sinh sản khi thấy đau bụng dưới thường xuyên thì không nên chủ quan. Nếu cơn đau này xuất hiện trong khi bạn không có kinh, nó có thể là dấu hiệu của ung thư buồng trứng. Nhiều trường hợp đau bụng dưới sau khi tiến hành siêu âm thì phát hiện ra mắc bệnh ung thư buồng trứng.

Các giai đoạn phát triển ung thư buồng trứng.

Các giai đoạn phát triển ung thư buồng trứng.

Đầy hơi, buồn nôn và nôn: là triệu chứng của những bệnh đặc trưng về tiêu hóa. Nhưng cảm giác đầy hơi liên tục hằng ngày thì nên cảnh giác với những tế bào ác tính ở buồng trứng. Dấu hiệu đầy hơi, buồn nôn thường nhầm lẫn triệu chứng bệnh về tiêu hóa dẫn đến khối u có thể phát triển nhanh và gây nguy hiểm cho người bệnh.

Đi tiểu liên tục: Hiện tượng rối loạn tiểu tiện có thể do nhiều yếu tố và có thể do nhiều bệnh lý gây ra, bao gồm những vấn đề bàng quang, đường tiết niệu, các triệu chứng của đường huyết cao nhưng cũng là biểu hiện của bệnh về buồng trứng.

Đau khi “yêu”: Rất nhiều trường hợp cảm thấy khó chịu, thậm chí là đau khi quan hệ tình dục và thường xuyên có nhu cầu tiểu gấp do những áp lực lên vùng xương chậu. Mức độ đau càng cao thì bệnh ung thư buồng trứng có thể đang phát triển ở giai đoạn nặng.

Mệt mỏi: Khó thở, buồn nôn và mất cảm giác ngon miệng, cơ thể luôn mệt mỏi chính là một trong những biểu hiện do tế bào ung thư đang tiến triển. Nếu bạn liên tục uể oải, mệt mỏi mặc dù không làm việc quá sức có thể là một triệu chứng của bệnh ung thư nói chung, trong đó có ung thư buồng trứng.

Chu kỳ kinh nguyệt bất thường: Chu kỳ kinh bất thường hay còn gọi là chứng rối loạn kinh nguyệt là biểu hiện của nhiều bệnh phụ khoa trong đó có những bệnh liên quan đến buồng trứng.

Ung thư buồng trứng di căn thế nào?

Bệnh ung thư buồng trứng thường không được phát hiện sớm. Chỉ đến khi nó đã lan rộng ra khung xương chậu và vùng bụng thì bệnh nhân mới biết. Đây cũng là lúc bệnh đã có biến chứng và bắt đầu di căn. Nếu không được điều trị kịp thời, phụ nữ bị ung thư buồng trứng không chỉ phải đối mặt với nguy cơ vô sinh mà còn có nguy cơ tử vong cao.

Ung thư buồng trứng ở giai đoạn ba là giai đoạn đã xuất hiện yếu tố di căn. Các tế bào ung thư buồng trứng sau khi hình thành trong buồng trứng ở một thời gian nhất định, dần dần lớn lên và bắt đầu tách ra khỏi buồng trứng để xâm lấn vào các mô và cơ quan khác theo một quá trình cụ thể và quá trình này được gọi là quá trình rụng.

Một khi tế bào ung thư đã rụng xuống, các tế bào bắt đầu sự gieo mầm của chúng để phát triển tại thành bề mặt của màng bụng. Dần dần sự gieo mầm trong ổ bụng tập trung lại và lớn dần lên, đó chính là hiện tượng cổ trướng. Hiện tượng cổ trướng khiến cho người phụ nữ bị trướng phần bụng bị phù nề ở phần chân tay hay cơ mặt.

Những tế bào ung thư này có thể tiến sâu vào cơ thể và đi đến theo hai đường là đường mạch máu và hệ bạch huyết. Nếu đi theo đường máu, tế bào này đến những bộ phận khác của cơ thể như gan, phổi, xương tạo nên những khối u nhú khác tại đó. Còn khi xâm nhập vào hệ bạch huyết, tế bào ung thư có thể di căn hạch khiến cho hạch sưng to gây đau đớn cho người bệnh.

Lời khuyên của thầy thuốcKhông chỉ ung thư buồng trứng mà tất cả các bệnh ung thư khác nếu được phát hiện ở giai đoạn đầu thì khả năng chữa khỏi là rất cao. Riêng với bệnh ung thư buồng trứng thì nếu mới chớm bị bệnh mà bệnh nhân được phát hiện thì tỉ lệ chữa khỏi sẽ là 94%. Tỉ lệ điều trị khỏi bệnh ung thư buồng trứng ở những người trẻ sẽ cao hơn phụ nữ trên 65 tuổi.Việc điều trị ung thư buồng trứng sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm diễn biến bệnh và tình hình sức khỏe của bệnh nhân. Hiện có rất nhiều phương pháp khác nhau được kết hợp để điều trị cho bệnh nhân ung thư buồng trứng. Điều quan trọng nhất là khi thấy có các dấu hiệu khác thường thì phụ nữ nên đi khám bệnh để được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

BS. SONG NHI

Trẻ nên ăn gì khi mẹ thiếu sữa?

Sau khi sinh con, người mẹ cần cho con bú sớm, bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu và bú đến 24 tháng tuổi vì sữa mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng và kháng thể, các chất dinh dưỡng ở tỉ lệ cân đối phù hợp với sự tiêu hóa và hấp thu của trẻ nhỏ. Nhưng vì một lý do nào đó mà người mẹ không đủ sữa cho con thì trong 6 tháng đầu ngoài việc tận dụng nguồn sữa mẹ, nhất thiết phải chọn giải pháp ăn thêm sữa ngoài. Ăn thêm sữa ngoài có 2 cách để lựa chọn là cho trẻ bú nhờ hoặc cho trẻ ăn thêm sữa bột công thức.

Bú nhờ là thói quen của nhiều bà mẹ trước kia vì có thể mẹ ít sữa, mẹ phải đi làm xa, đồng thời vì lúc đó sữa bột công thức còn hiếm và đắt. Hiện nay, có ngân hàng sữa mẹ đó cũng là hình thức bú nhờ nhưng không phải là đứa trẻ bú trực tiếp sữa của bà mẹ. Bú nhờ sữa từ ngân hàng sữa cũng là bú mẹ và sữa mẹ nào cũng tốt cho trẻ nhỏ. Tuy nhiên, bú nhờ cũng có nguy cơ lây truyền bệnh truyền nhiễm qua đường sữa và máu. Vì vậy, khi cho trẻ đi bú trực thì gia đình trẻ cần lựa chọn bà mẹ khỏe mạnh, bà mẹ ấy không bị các bệnh truyền nhiễm như: viêm gan b, viêm gan C, bệnh HIV, bệnh lao… để tránh truyền bệnh sang cho trẻ. Khi cho trẻ bú nhờ, cần tìm hiểu kỹ người mình xin cho trẻ bú, đồng thời phải chắc chắn họ là người khỏe mạnh mới cho bú trực.

Trẻ nên ăn gì khi mẹ thiếu sữa?

Ăn thêm sữa ngoài có 2 cách để lựa chọn là cho trẻ bú nhờ hoặc cho trẻ ăn thêm sữa bột công thức

Ăn thêm sữa công thức: với mỗi lứa tuổi có một loại sữa riêng, vì vậy cần lựa chọn sữa công thức sao cho phù hợp với trẻ. Mỗi một sản phẩm sữa là loại thực phẩm, có thể phù hợp với trẻ này nhưng lại không phù hợp với trẻ khác mặc dù cùng nhóm tuổi là do cơ địa, khả năng tiêu hóa và hấp thu. Vì vậy, khi lựa chọn sữa công thức cho trẻ, các bà mẹ cần lưu ý một số điểm sau:

- Sữa dùng cho lứa tuổi nào? Có phù hợp với lứa tuổi con mình hay không?

Hãy lựa chọn sữa dựa vào những thành phần quan trọng nhất của sữa bao gồm:Năng lượng, chất đạm, chất béo

- Để đảm bảo nhu cầu cho sự phát triển tòan diện của trẻ, hãy lựa chọn sữa dựa vào những thành phần quan trọng nhất của sữa bao gồm: năng lượng, chất đạm, chất béo.

- Giá trị của sữa không phải từ giá cả: không phải cứ sữa đắt, sữa có giá thành cao là tốt. Điều quan trọng là bạn cho con bạn được bao nhiêu phần trăm năng lượng từ sữa trong một ngày, lượng sữa trẻ uống hàng ngày là quan trọng, vì tổng năng lượng trẻ ăn được hàng ngày sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng của trẻ.

Do khả năng tiêu hóa của trẻ trong những tháng đầu sau sinh còn yếu, nên khi pha sữa cho trẻ cần đúng tỉ lệ, công thức cho từng tháng tuổi. Không pha nồng độ sữa loãng quá, hay nồng độ đặc quá vì ảnh hưởng tới việc tiêu hóa và hấp thu của trẻ, đồng thời không tốt cho sức khỏe của trẻ.

ThS.BS. NGUYỄN VĂN TIẾN

(Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng - Viện Dinh dưỡng Quốc gia)

Tiểu đường trong thai kỳ ảnh hưởng đến sức khỏe tim mạch của thai nhi

Bệnh tim bẩm sinh ảnh hưởng đến gần 1/100 trẻ em sinh ra ở Hoa Kỳ trở thành dị tật bẩm sinh phổ biến nhất. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng gây ra khác nhau, từ cơ tim yếu và không có triệu chứng cho các biến dạng tim nghiêm trọng cần phải phẫu thuật.

TS. Nakano trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: Mức đường trong máu cao không chỉ có hại cho người lớn, mà còn nguy hiểm cho việc phát triển của bào thai, hiểu rõ hơn về cơ chế làm tăng lượng đường trong máu gây ra các bất thường ở bào thai sẽ giúp tìm ra các liệu pháp điều trị mới.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng khi phát triển tế bào tim ở mức glucose cao, các tế bào này tạo ra nhiều khối DNA hơn bình thường dẫn tới kích thích tế bào tiếp tục tái sản xuất hơn là phát triển hoàn thiện.

Trẻ sinh ra từ những bà mẹ có lượng đường trong máu cao trong thời kỳ mang thai có nguy cơ mắc chứng rối loạn cao gấp từ 2-5 lần so với những đứa trẻ khác.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, khi tiếp xúc với glucose nhiều hơn, các tế bào tim mạch sẽ kích hoạt quá mức pentose phosphate tạo ra nhiều nucleotide hơn bình thường, kết quả là hạn chế sự hoàn thiện của tế bào. TS.Nakano cho biết: Bằng cách làm suy giảm glucoza ở thời điểm thích hợp trong quá trình phát triển, chúng ta có thể hạn chế sự gia tăng các tế bào, khiến chúng tăng trưởng và làm cho cơ tim khỏe hơn.

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng các tế bào gốc phôi người để phát triển các tế bào cơ tim, hoặc các tế bào tim trong phòng thí nghiệm và sau đó cho tiếp xúc với các mức độ glucose khác nhau. Kết quả cho thấy các tế bào đã được tiếp xúc với một lượng nhỏ glucose sẽ phát triển bình thường, các tế bào tiếp xúc với lượng glucose cao sẽ hoàn thiện muộn hoặc không hoàn thiện hoàn toàn và thay vào đó sinh ra nhiều tế bào chưa hoàn thiện.

BS. Phan Hưng

Dịch âm đạo – dấu hiệu chỉ điểm bệnh phụ nữ

Dịch âm đạo là hiện tượng bình thường của phụ nữ, có chức năng làm sạch và bảo vệ âm đạo, nó xuất hiện thường xuyên và liên tục suốt chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, thường có màu trắng, trong như lòng trắng trứng, thường không có mùi hoặc mùi hơi tanh nồng. Vào tuổi dậy thì, bé gái bắt đầu xuất hiện dịch tiết âm đạo, nó thường xuất hiện nhiều hơn trước thời điểm rụng trứng, trước kỳ kinh nguyệt, hoặc trong lúc giao hợp, dịch tiết âm đạo có tác dụng bôi trơn đường sinh dục của phụ nữ.

Ngoài tác dụng bôi trơn, duy trì độ pH ở đường sinh dục, dịch tiết âm đạo còn có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn. Tuy nhiên không phải lúc nào dịch tiết âm đạo cũng có thể chống chọi với mọi sự xâm nhập của vi khuẩn, virus. Khi bị nhiễm trùng ở đường sinh dục, dịch tiết âm đạo có màu bất thường hoặc mùi hôi. Nó thường có nguyên nhân là do sự tấn công của nấm hoặc vi khuẩn. Nếu có bất kỳ dấu hiệu bất thường dưới đây, bạn nên đến gặp các bác sĩ phụ khoa để được chẩn đoán và điều trị bệnh.

Màu trắng đục

Khi dịch âm đạo có màu trắng, đục ở đầu hoặc cuối chu kỳ kinh nguyệt là bình thường, nhưng nếu dịch âm đạo loại này kèm theo ngứa, đau khi giao hợp, dịch âm đạo trắng đục, lổn nhổn như váng sữa, rất có thể đây là dấu hiệu của viêm âm đạo do nấm Candida. Loại nấm này thường tồn tại trong đường sinh dục nhưng khi gặp điều kiện thuận lợi nó sẽ phát triển và gây bệnh ở âm đạo. Các xét nghiệm soi tươi đơn giản sẽ tìm ra chính xác căn bệnh rất phổ biến này ở chị em phụ nữ.

Dịch trong và nhiều nước

Đây là loại dịch âm đạo hoàn toàn bình thường, có thể xảy ra ở bất kỳ thời gian nào trong tháng. Nó có thể xuất hiện nhiều hơn sau khi tập thể dục. Dịch âm đạo thường trong như lòng trắng trứng và rất dai, dịch ra nhiều nhất vào thời điểm phụ nữ rụng trứng, đây cũng là biểu hiện rất bình thường của dịch tiết âm đạo.

m đạo có dịch màu nâu, có máu

Dịch âm đạo có máu là bình thường nếu nó xảy ra trong hoặc ngay sau kỳ kinh nguyệt của bạn. Tuy nhiên khi dịch âm đạo xuất hiện vào cuối kỳ nguyệt san nhưng có màu nâu hoặc dịch âm đạo có máu vào giữa chu kỳ bạn cần phải cẩn thận. Nếu trong thời gian này bạn có quan hệ tình dục không được bảo vệ, rất có thể đây là dấu hiệu cho thấy bạn mang thai. Ra máu ở giai đoạn đầu thai kỳ báo hiệu thai nhi của bạn đang gặp nguy hiểm, bạn cần đến bác sĩ ngay.

Nếu loại bỏ các khả năng này, dịch âm đạo có màu nâu hoặc máu là dấu hiệu sớm của một căn bệnh nguy hiểm như ung thư cổ tử cung, đây là loại ung thư gây tử vong cao ở phụ nữ. Đó là lý do tại sao phụ nữ trên 35 tuổi được khuyến cáo khám phụ khoa định kỳ 6 tháng và làm xét nghiệm PAP để kiểm tra bất thường ở cổ tử cung.

Dịch âm đạo có màu vàng hoặc xanh

Khi dịch âm đạo ra màu vàng hoặc hơi xanh lá, nhất là khi dịch ra nhiều, có mùi hôi sủi bọt là báo hiệu có thể bạn đã bị nhiễm trùng roi trichomonas. Bệnh này thường lây nhiễm qua quan hệ tình dục, nếu không được chữa trị có thể gây viêm buồng trứng, cổ tử cung và là nguyên nhân gây vô sinh ở phụ nữ.

Dưới đây là một số nguyên nhân gây viêm đường âm đạo ở phụ nữ lây theo đường tình dục

Do vi khuẩn Vaginosis

Đây là viêm âm đạo do nhiễm vi khuẩn khá phổ biến. Nó gây tăng tiết dịch âm đạo, dịch có màu trắng, xám, có mùi hôi hoặc tanh, nhiều trường hợp không có triệu chứng. Những phụ nữ quan hệ tình dục bằng miệng hoặc những người có nhiều bạn tình có nguy cơ bị lây bệnh này.

Do trichomonas

Đây là một dạng nhiễm trùng do một sinh vật đơn bào gây ra. Nhiễm trùng này lây qua đường tình dục, nhưng cũng có thể do mặc chung quần lót, dùng chung chậu rửa... Khi bị viêm âm đạo do trichomonas, âm đạo thường có dịch màu vàng hoặc màu xanh lá cây có mùi hôi. Bệnh nhân đau khi quan hệ tình dục, ngứa cũng là triệu chứng phổ biến của bệnh, mặc dù một số người không có bất kỳ triệu chứng nào.

Nhiễm trùng do nấm men

Nhiễm nấm âm đạo là bệnh phổ biến, phụ nữ nào cũng ít nhất 1 lần trong đời nhiễm nấm. Nấm men vốn tồn tại ở đường tiêu hóa, âm đạo. Bình thường vi khuẩn trong cơ thể kiểm soát nấm men, nhưng khi nấm phát triển quá nhanh, hoặc cơ thể mất cân bằng hệ vi khuẩn là điều kiện để nấm phát triển và sinh bệnh. Một số lý do dưới đây có thể là nguyên nhân khiến bạn có nguy cơ cao nhiễm nấm: Bệnh tiểu đường, làm đường xuất hiện trong nước tiểu và âm đạo; Sử dụng thuốc kháng viêm, dị ứng, thuốc kháng sinh sẽ tiêu diệt các loại vi khuẩn có lợi; Mang thai làm thay đổi hormon.

Do lậu và Chlamydia

Đây là 2 bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể làm cho dịch âm đạo có dấu hiệu bất thường như có màu vàng, xanh, hoặc trắng đục.

Do virut HPV: Human Papillomavirus (HPV) là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới ung thư cổ tử cung. Khi bị nhiễm HPV dịch âm đạo thường đặc, có máu, màu nâu, có mùi hôi.

Khi nào cần đi khám

Nếu dịch âm đạo của bạn có bất thường kèm theo các triệu chứng khác như sốt, đau bụng, sụt cân không giải thích được, mệt mỏi, hay đi tiểu nhiều, bạn nên gặp bác sĩ càng sớm càng tốt. Bác sĩ chuyên khoa sẽ hỏi bạn về các triệu chứng, chu kỳ kinh nguyệt và hoạt động tình dục của bạn.

Sau đó bác sĩ có thể cho người bệnh làm một số xét nghiệm chẩn đoán như kiểm tra HPV hoặc tế bào bất thường ở cổ tử cung có thể là nguyên nhân gây ung thư tử cung, các loại nấm, vi khuẩn có ở dịch tiết âm đạo sẽ xác định chính xác bạn mắc bệnh gì và từ đó lựa chọn phương án điều trị.

Chăm sóc âm đạo thế nào cho đúng

Để ngăn ngừa nhiễm trùng âm đạo, bạn nên thực hành vệ sinh tốt và mặc đồ lót thoáng khí, bằng chất cotton. Không thụt rửa âm đạo. Nên quan hệ tình dục an toàn bằng cách sử dụng bao cao su để tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

TS. Nguyễn Mai Hoàng

(theo Healthline)

Khi nào nên siêu âm thai lần đầu?

(Tuyết A. - TP.HCM)

Ngày nay, siêu âm là phương hữu hiệu giúp chẩn đoán ra được nhiều bệnh, đặc biệt phát hiện mang thai rất sớm. Tuy nhiên, bạn không nên siêu âm quá nhiều khi tuổi thai chỉ mới hai đến 3 tuần, dù y học chưa ghi nhận trường hợp nào bị biến chứng thai nhi do siêu âm, tốt nhất sau ba tuần chậm kinh mới nên tiến hành siêu âm lần đầu. Siêu âm sớm vừa không có lợi cho thai vừa không có tác dụng phát hiện bất cứ dấu hiệu nào của thai.

Sau khi được thụ tinh ở 1/3 đầu vòi trứng, từ giờ thứ 30 hợp tử di chuyển xuống tử cung và phân chia theo cấp số nhân 2; từ tế bào đầu tiên, nó phân chia thành 2 tế bào vẫn dính liền nhau rồi thành 4, 8, 16… Sau 5 ngày phát triển thành một khối nhỏ không lớn gọi là phôi bào; hai ngày sau nữa phôi vào đến tử cung và được vùi vào lớp niêm mạc để làm tổ; giai đoạn này phôi sẽ tiết ra HCG có trong nước tiểu. Vì thế sẽ biết có thai khi thử Quickstick, siêu âm có thể chưa thấy rõ; cho nên nếu trễ kinh nên mua dụng cụ thử thai ở nhà thuốc tây, thử thai qua nước tiểu, nếu thấy có 2 vạch màu hồng thì biết rằng mình đã có thai. Quá trình thụ thai được tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối. Vì vậy, trong vòng 3 tuần đầu tiên, người phụ nữ có thể chưa thực sự mang thai, nên trong thời gian này nên tránh quan hệ, dễ gây sảy thai Trong quá trình từ khi mang thai tới khi sinh, sản phụ chỉ nên đi thăm khám trung bình 7 lần với bác sĩ sản khoa, 3 lần siêu âm thai, theo dõi tim thai và các xét nghiệm máu thường quy, tiêm phòng uốn ván, tuần thứ 12 đo độ mờ da gáy vào tuần lễ 11 - 13: đo độ mờ da gáy (qua siêu âm) cùng xét nghiệm PAPP-A, Free- â HCG và tuổi mẹ giúp đánh giá nguy cơ hội chứng Down.

Sản phụ tăng thêm 9 - 11kg trong cả quá trình mang thai là lý tưởng, nếu tăng cân nhiều, 18 - 20kg, thường không tốt cho mẹ và bé vì khiến cả hai tăng nguy cơ bị đái tháo đường rất cao.

BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG

Sau khi cắt tử cung, chị em có bị mất khoái cảm tình dục?

Theo BS. chuyên khoa II Nguyễn Văn Hùng - BV Đa khoa An Việt: Cắt bỏ tử cung bất kể đối với phụ nữ ít tuổi hay lớn tuổi đều nhằm mục đích chữa trị bệnh tật. Việc cắt bỏ tử cung không làm giảm khả năng tình dục và ham muốn của nữ giới như nhiều người vẫn quan niệm. Thực tế, tử cung chỉ là cơ quan nuôi dưỡng thai nhi. Buồng trứng mới là cơ quan nội tiết quan trọng không thể thiếu để duy trì tính dục của nữ giới, điều hoàn hệ thống nội tiết của toàn cơ thể.

Bởi tử cung không phải là nơi tiết ra hoóc môn nữ mà buồng trứng mới là cơ quan tiết ra hoóc môn nữ. Buồng trứng mỗi tháng tiết ra chất kích thích thụ thai, hoóc môn nữ theo tính chu kỳ để duy trì kinh nguyệt và sự rụng trứng.

Theo BS. chuyên khoa II Nguyễn Văn Hùng - BV Đa khoa An Việt: Việc cắt bỏ tử cung không làm giảm khả năng tình dục và ham muốn của nữ giới như nhiều người vẫn quan niệm.

BS. Hùng cho hay: Đa phần bệnh nhân nữ sau khi cắt bỏ một phần (để lại cổ tử cung) hoặc cắt toàn bộ tử cung đều cảm thấy lo lắng và cho rằng sau khi cắt bỏ tử cung sẽ gặp phải tình trạng khô hạn âm đạo, mất đi độ trơn khi quan hệ, sẽ gây đau đớn cho bản thân và giảm hứng thú cho đối tác… Tuy nhiên theo nhiều kết quả nghiên cứu của các chuyên gia sản khoa cho thấy, nửa năm sau ca phẫu thuật cắt bỏ tử cung, họ không gặp vấn đề khó khăn gì trong sinh hoạt chăn gối với chồng hoặc bạn tình của mình. Có nhiều phụ nữ còn cảm thất “tích cực” hơn sau khi trải qua phẫu thuật.

Một bằng chứng cho việc ham muốn của chị em phụ nữ không bị suy giảm đi sau khi phải cắt bỏ tử cung là việc: Nhiều chị em cho biết trước khi cắt bỏ tử cung, họ có đời sống tình dục rất tồi tệ do bị nhiễm các bệnh phụ khoa nhưng sau khi cắt bỏ tử cung, họ không gặp phải khó khăn trong sinh hoạt chăn gối như trước, thậm chí cả chị em và đối tác còn cảm thấy “vui vẻ” hơn trước mỗi lần “giao ban”.

Cũng theo BS. Hùng: Sau khi cắt tử cung nếu được chăm sóc và hướng dẫn phù hợp, khả năng ham muốn và sinh hoạt tình dục của phụ nữ sẽ được hồi phục và không bị ảnh hưởng .

BS. Hùng lưu ý thêm: Thái độ của người chồng trong sinh hoạt tình dục sau khi vợ cắt bỏ tử cung là một điều hết sức quan trọng quyết định tới khả năng ham muốn của chị em. Nếu người chồng cho rằng: Cắt bỏ tử cung nghĩa là vợ sẽ mất đi sức hấp dẫn của nữ giới, lười kích thích sự hm muốn ở vợ thì vô tình người chồng sẽ làm giảm nhiệt huyết của chị em đi rất nhiều.

Thanh Loan.

Người bệnh tim mang thai, cần lưu ý gì?

(suckhoedoisong.vn) - Khi người phụ nữ có thai sẽ xuất hiện các biến đổi của tim và mạch máu. Đặc biệt với những phụ nữ có sẵn bệnh lý tim mạch, thời tiết nắng nóng mùa hè càng khiến bệnh nặng hơn làm cho thai phụ mệt mỏi, dễ xuất hiện những bệnh lý do thai nghén rất nguy hiểm cho mẹ và thai nhi. Bài viết dưới đây cung cấp kiến thức cần biết cho những phụ nữ mắc bệnh tim chuẩn bị mang thai hoặc đang mang thai để chú ý phòng ngừa, tránh xảy ra những biến chứng đáng tiếc.

Những biến đổi của tim và mạch máu khi mang thai

Khi người phụ nữ có thai sẽ xuất hiện các biến đổi của tim và mạch máu. Chúng làm tăng công cơ tim và tăng gánh nặng cho sản phụ. Các biến đổi đó bao gồm: Tăng thể tích máu: Trong 3 tháng đầu tiên của thai kỳ, thể tích máu tuần hoàn sẽ tăng lên 40 - 50% và duy trì ở mức này trong suốt quá trình mang thai; Tăng cung lượng tim: Cung lượng tim sẽ tăng lên 30-40%, tương ứng với mức tăng thể tích máu; Tăng nhịp tim: Thông thường, khi mang thai, nhịp tim sẽ tăng hơn lên 10-15 nhịp/phút; Hạ huyết áp: Ở một số người, huyết áp có thể giảm khoảng 10mmHg trong quá trình mang thai. Nguyên nhân là do biến đổi nội tiết tố và tăng lượng máu chạy thẳng đến tử cung. Phần lớn các trường hợp hạ huyết áp không gây triệu chứng và không cần điều trị. Bác sĩ sẽ theo dõi số đo huyết áp của sản phụ vào những lần khám thai định kỳ.

Phụ nữ có thai cần kiểm tra huyết áp thường xuyên.

Những biến đổi trên là bình thường trong quá trình mang thai.

Tuy nhiên, phụ nữ có bệnh tim cần lưu ý đặc biệt trước và trong khi mang thai vì một số bệnh tim mạch có thể làm tăng nguy cơ biến chứng ở sản phụ.

Phụ nữ bị tim bẩm sinh có nên mang thai?

Nói chung, đa số phụ nữ có bệnh tim bẩm sinh, nhất là những người đã làm phẫu thuật sửa chữa, đều có thể mang thai. Tuy nhiên, tùy loại tổn thương bẩm sinh, mức độ nặng của bệnh, có hay không tăng áp lực động mạch phổi, tiền sử phẫu thuật tim, các bệnh tim hay phổi kèm theo là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc mang thai. Những phụ nữ bệnh tim bẩm sinh phức tạp có tím mà chưa được sửa chữa hoặc đã có tăng áp lực động mạch phổi thì không nên mang thai, vì điều đó sẽ làm tăng nguy cơ tử vong của mẹ.

Ở phụ nữ có bệnh tim bẩm sinh, dần dần triệu chứng của suy tim sẽ xuất hiện hoặc nặng lên, làm tăng nguy cơ biến chứng lâu dài ở mẹ. Bố hoặc mẹ có bệnh tim bẩm sinh thì con sẽ có nguy cơ mắc tim bẩm sinh cao hơn những gia đình khác. Những trường hợp này cần chuyển bác sĩ tim mạch để làm siêu âm tim cho thai nhi giúp kiểm tra đứa trẻ có tổn thương bẩm sinh nào không. Thường thì siêu âm tim cho thai được làm vào tuần thứ 10 của thai kỳ.

Nếu bạn đã được chẩn đoán bệnh tim bẩm sinh, bác sĩ tim mạch sẽ đánh giá tình trạng bệnh tim của bạn khi bạn dự định có thai và tư vấn về những nguy cơ có thể gặp. Bác sĩ tim mạch cũng sẽ cùng các bác sĩ sản khoa theo dõi tình trạng sức khỏe của mẹ và thai trong quá trình mang thai.

Những phụ nữ bị phình, giãn mạch chưa được sửa chữa thì không nên mang thai.

Phụ nữ có bệnh tim cần làm gì khi dự định mang thai?

Phụ nữ cần đi khám bác sĩ chuyên khoa tim mạch khi dự định mang thai. Nếu bạn có sẵn bệnh lý tim mạch, đặc biệt giống như những bệnh dưới đây thì cần hết sức thận trọng và có sự phối hợp chặt chẽ với thầy thuốc: Tăng huyết áp hoặc tăng mỡ máu. Tiền sử được chẩn đoán bệnh lý tim mạch gồm bệnh động mạch chủ, rối loạn nhịp tim, có tiếng thổi ở tim, bệnh cơ tim, suy tim, hội chứng Marfan, thấp tim. Tiền sử có biến cố tim mạch (như đột quỵ hay tai biến mạch não thoáng qua). Giảm khả năng gắng sức. Hẹp khít van hai lá, van động mạch chủ hoặc đường ra động mạch chủ, xác định trên siêu âm tim. Phân số tống máu (phản ánh lượng máu được bơm khỏi tim trái trong mỗi nhát bóp của tim) thất trái dưới 40% (bình thường là 50-70%). Nó đánh giá chức năng bơm máu của tim còn tốt hay không.

Thầy thuốc chuyên khoa tim mạch sẽ hỏi về tiền sử bệnh của bạn, khám lâm sàng và yêu cầu bạn làm một số thăm dò cận lâm sàng cần thiết để đánh giá chức năng tim cũng như mức độ nghiêm trọng của bệnh. Dựa trên kết quả xét nghiệm, bác sĩ tim mạch sẽ cho bạn biết mang thai có an toàn hay không, có những nguy cơ gì tiềm ẩn trong quá trình mang thai, gồm cả nguy cơ cho thai nhi và cho sức khỏe lâu dài của bạn và em bé. Bác sĩ cũng sẽ thảo luận về các thuốc cần dùng trước khi bạn mang thai.

Cần phải thông báo với bác sĩ mọi thuốc bạn đang sử dụng (gồm cả thuốc tim mạch lẫn những thuốc không được kê đơn mà bạn vẫn dùng hàng ngày). Bác sĩ có thể điều chỉnh liều thuốc nếu cần thiết hoặc kê thuốc khác an toàn hơn.

Phần lớn những phụ nữ có bệnh tim mạch đã được điều trị khỏi có thể mang thai an toàn và đẻ con khỏe mạnh. Tuy nhiên, một số trường hợp chưa hoặc không nên mang thai một khi bệnh tim nặng hoặc chưa được điều trị hiệu quả. Những bệnh tim chưa hoặc không nên vội mang thai là:

- Các bệnh tim mạch nói chung gây suy tim nặng mà chưa được chữa tốt hoặc không chữa được.

- Các bệnh tim bẩm sinh có tím chưa được sửa chữa hoặc bệnh tim bẩm sinh đã gây tăng áp lực động mạch phổi nặng.

- Các bệnh van tim (hẹp hoặc hở) van nặng mà chưa được điều trị triệt để (nong van, phẫu thuật…).

- Các bệnh động mạch chủ (phình, giãn…) chưa được sửa chữa.

- Các rối loạn nhịp trầm trọng hoặc tăng huyết áp nặng chưa được khống chế tốt…

PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng

Cho con bú giúp phòng ngừa bệnh tim mạch ở phụ nữ.

Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng việc cho con bú giúp bà mẹ mang lại lợi ích sức khoẻ ngắn hạn sau sinh. Nghiên cứu mới này đã đánh giá tác động của việc cho con bú trong khoảng thời gian dài hơn, có tác động đến sức khoẻ tim mạch khoảng một thập kỷ sau khi sinh của phụ nữ trẻ và trung niên. Nghiên cứu này cũng củng cố các bằng chứng về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ ở những phụ nữ có huyết áp bình thường trong thai kỳ và kiểm tra cụ thể xem liệu những lợi ích này cũng được thấy ở phụ nữ có huyết áp cao trong thời kỳ mang thai hay không.

BS. Malamo Countouris thuộc Đại học Pittsburgh, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: Nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng việc cho con bú không chỉ quan trọng cho trẻ mà còn mang lại lợi ích to lớn cho người mẹ. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ tim mạch cho bà mẹ thông qua cải thiện chỉ số cholesterol và các dấu hiệu cận lâm sàng của bệnh tim mạch.

Nghiên cứu được tiến hành trên 678 phụ nữ mang thai tại hơn 52 phòng khám thuộc bang Michigan, Hoa Kỳ từ năm 1998 đến năm 2004. Các phụ nữ này tiếp tục tham gia đánh giá sức khoẻ trong giai đoạn tiếp theo từ 7 đến 15 năm sau (trung bình hơn 11 năm). Trong quá trình đánh giá tiếp theo, người tham gia đã báo cáo về thời gian mà họ cho con bú sau mỗi lần mang thai, các nhà nghiên cứu đã đo lường huyết áp, cholesterol, triglyceride, đường kính và độ dày của động mạch cảnh. Những yếu tố này thường được sử dụng để đánh giá nguy cơ bệnh tim mạch vì chúng cảnh báo sớm những vấn đề tiềm ẩn ở những bệnh nhân chưa có bệnh tim mạch.

Các nhà nghiên cứu phân chia đối tượng nghiên cứu thành ba nhóm: những người không bao giờ cho con bú (157 phụ nữ), những người cho con bú ít hơn 6 tháng trong một lần mang thai (284 phụ nữ) và những người cho con bú từ 6 tháng trở lên mỗi lần mang thai (133 phụ nữ). Bên cạnh đó, họ phân tích riêng những phụ nữ bị huyết áp cao và huyết áp bình thường trong thời kỳ mang thai.

Sau khi điều chỉnh các yếu tố về độ tuổi, kinh tế gia đình của phụ nữ mang thai và các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn khác, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những phụ nữ có huyết áp bình thường trong thời kỳ mang thai và cho con bú ít nhất 6 tháng hoặc nhiều hơn thì có mức cholesterol "tốt" cao hơn, giảm triglyceride và độ dày động mạch cảnh so với những người chưa bao giờ cho con bú bằng sữa mẹ.

Những phát hiện này cho thấy rằng phụ nữ có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tim bằng cách cho con bú ít nhất 6 tháng trong một thai kỳ. Mặc dù các cơ chế sinh lý cụ thể vẫn chưa được nghiên cứu sâu, BS. Countouris cho rằng là việc cho con bú làm tăng sự biểu hiện của hoóc môn oxytocin, có thể làm giảm huyết áp. Người ta cũng giả thuyết rằng lactation có thể chống lại một số thay đổi về chuyển hóa xảy ra trong thời kỳ mang thai.

Đối với những phụ nữ bị huyết áp cao trong thời kỳ mang thai, các nhà nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về lợi ích sức khỏe tim mạch từ việc cho con bú sữa mẹ. BS. Countouris giả thuyết rằng số người tham gia nghiên cứu có huyết áp cao trong thời kỳ mang thai có thể chưa đủ để đánh giá bất kỳ lợi ích tim mạch nào trong số những phụ nữ này. Các nhà nghiên cứu cho biết những nghiên cứu trong tương lai sẽ bao gồm nhiều người tham gia hơn, hoặc theo dõi phụ nữ trong thời gian dài hơn có thể giúp làm sáng tỏ các yếu tố nguy cơ gây bệnh tim mạch ở những phụ nữ có huyết áp bình thường và cao huyết áp trong thời kỳ mang thai.

Phan Hưng

((Theo Medicalxpress.com, 2018))

Các yếu tố có thể gây sảy thai

Dưới đây là một số yếu tố dẫn tới sảy thai hoặc buộc phải phá thai.

Ảnh minh họa.

1. Bệnh tật

Lối sống lành mạnh, ăn uống đúng cách, có cân nặng hợp lý, tất cả những điều này sẽ góp phần tăng cường sức khỏe của thai nhi. Nếu bạn mắc bệnh nào đó, bạn sẽ cần kiểm soát bệnh và rất lưu ý trong khi dùng thuốc vì nó có thể gây sảy thai hoặc các khuyết tật bẩm sinh cho trẻ. Bệnh tiểu đường không được kiểm soát hoặc tình trạng tiền tiểu đường có thể dẫn tới các khuyết tật ở trẻ. Tránh dùng các thuốc động kinh để ngăn ngừa khuyết tật bẩm sinh.

2. Tuyến giáp

Hormon tuyến giáp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của một đứa trẻ khỏe mạnh và duy trì sức khỏe của mẹ.

Hormon tuyến giáp quan trọng đối với sự phát triển bình thường của não và hệ thần kinh của trẻ. Trong 3 tháng đầu tiên, bào thai phát triển phụ thuộc vào sự bổ sung hormon tuyến giáp của mẹ, được mang tới qua nhau thai. Khoảng tuần thứ 12, tuyến giáp của trẻ bắt đầu hoạt động. Cả hai tình trạng cường giáp và suy giáp đều có thể gây sảy thai. Vì vậy, bạn cần thận trọng và nên thực hiện những kiểm tra này khi bắt đầu lên kế hoạch mang thai.

3. Tiêm chủng

Bạn cần chủng ngừa đầy đủ và nhận thức được tình trạng sức khỏe của mình. Rubella là một nhiễm vi-rút, nếu bạn mắc phải trong những tháng đầu thai kỳ, nó có thể gây khuyết tật bẩm sinh, vì vậy, bạn cần được tiêm phòng trước khi mang thai để ngăn ngừa biến chứng. Tiêm phòng đúng thời điểm giúp bảo vệ sức khỏe cho bạn và bé.

4. Các hóa chất độc hại

Tránh các hóa chất độc hại và các chất gây ô nhiễm môi trường ở nơi làm việc hoặc ở nhà như các hóa chất tổng hợp, kim loại, phân bón, thuốc xịt côn trùng, phân của mèo và các động vật gặm nhấm. Những chất này có thể làm tổn thương hệ sinh sản của cả nam và nữ. Phơi nhiễm với lượng nhỏ những chất này có thể dẫn tới sảy thai.

5. Các sản phẩm làm đẹp

Sơn móng tay, son môi và các mỹ phẩm khác có thể có các hóa chất như phthalate và có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của bào thai. Vì thế nên hạn chế sử dụng.

6. Thực phẩm chứa chất bảo quản

Dinh dưỡng đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển khỏe mạnh của trẻ. Những thực phẩm chứa nhiều thuốc trừ sâu, chất bảo quản và các hóa chất khác có thể gây khuyết tật bẩm sinh vì vậy nên lựa chọn thực phẩm một cách khôn ngoan.

BS Cẩm Tú

(Theo THS/ Univadis)

Nhiễm trùng hậu sản

Hiện nay vấn đề nhiễm trùng bệnh viện đang được các cơ sở y tế chú ý ngăn ngừa bằng nhiều biện pháp để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng mắc phải, trong đó có nhiễm trùng hậu sản.

Nhiễm trùng hậu sản là tình trạng nhiễm trùng xảy ra ở sản phụ sau khi sinh xuất phát từ đường sinh dục như âm đạo, cổ tử cung, tử cung trong 6 tuần đầu sau đẻ. Một số vi khuẩn gây nhiễm trùng trên thực tế thường gặp là tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn, E. coli, các vi khuẩn kỵ khí như Clostridium, Bacteroides... Đường lan truyền để gây nhiễm khuẩn có thể từ âm đạo qua cổ tử cung, qua vòi tử cung vào phúc mạc; đồng thời vi khuẩn cũng có thể xâm nhập qua chỗ nhau bám vào máu gây nhiễm trùng máu. Yếu tố thuận lợi để gây nên tình trạng nhiễm trùng hậu sản do sản phụ có điều kiện dinh dưỡng kém, bị thiếu máu, nhiễm độc thai nghén, ối vỡ non, ối vỡ sớm, chuyển dạ kéo dài, bế sản dịch; do thực hiện các thủ thuật sản khoa như bóc nhau, kiểm soát tử cung...

Các hình thái nhiễm trùng hậu sản thường gặp là nhiễm khuẩn tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo; viêm niêm mạc tử cung, viêm tử cung và viêm quanh tử cung, viêm phúc mạc tiểu khung, viêm phúc mạc toàn bộ, nhiễm trùng huyết, viêm tắc tĩnh mạch.

Nhiễm trùng hậu sản

Nhiễm khuẩn tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo

Tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo bị nhiễm khuẩn thường do vết khâu tầng sinh môn không bảo đảm vô trùng, việc khâu phục hồi tầng sinh môn không đúng kỹ thuật hoặc bỏ sót không khâu, sót gạc trong âm đạo. Sản phụ có triệu chứng sốt không cao; tại chỗ vết thường có biểu hiện sưng, đỏ, đau và nung mủ; sản dịch không có mùi hôi. Biện pháp xử trí điều trị chủ yếu là chăm sóc tại chỗ bằng cách rửa sạch vết thương với thuốc sát khuẩn, cắt bỏ chỉ khâu tầng sinh môn khi có nung mủ, đóng băng vệ sinh, dùng gạc vô khuẩn để băng vết thương; có thể dùng kháng sinh nếu cần.

Viêm niêm mạc tử cung

Niêm mạc tử cung bị viêm do các nguyên nhân như sót nhau, sót màng nhau, nhiễm khuẩn ối, thực hiện thủ thuật kiểm soát tử cung, bóc nhau bằng tay không bảo đảm vô khuẩn. Sản phụ bị viêm niêm mạc tử cung có biểu hiện triệu chứng sốt 38 - 38,50C sau khi sinh vài ba ngày, mệt mỏi, khó chịu; sản dịch ra nhiều, có mùi hôi, có thể lẫn cả máu và mủ...; khám thấy cổ tử cung hé mở, tử cung co lại chậm, ấn tử cung gây đau; cần xét nghiệm lấy sản dịch cấy tìm vi khuẩn gây bệnh và làm kháng sinh đồ. Một hình thái nặng hơn của viêm niêm mạc tử cung là viêm tử cung toàn bộ, quá trình viêm nhiễm có thể lan tới lớp cơ tử cung với những ổ áp xe nhỏ; các triệu chứng lâm sàng có dấu hiệu nặng hơn viêm niêm mạc tử cung và dễ gây nên viêm phúc mạc hoặc nhiễm trùng máu. Biện pháp xử trí điều trị là dùng loại kháng sinh toàn thân như: ampicillin, gentamycin; thuốc làm tăng co bóp tử cung như: oxytocin, ergometrine; nếu nguyên nhân do sót nhau thì phải đợi đến khi nhiệt độ cơ thể giảm hoặc hết sốt mới được nong nạo buồng tử cung, nếu nguyên nhân gây viêm tử cung toàn bộ phải cắt bỏ tử cung toàn phần và xét nghiệm cấy máu để phát hiện sớm tình trạng nhiễm trùng huyết.

Viêm tử cung và viêm quanh tử cung

Bệnh lý viêm tử cung và viêm quanh tử cung làm cho sản phụ bị sốt sau khi sinh khoảng 8 - 10 ngày; lúc khám sờ nắn tiểu khung thấy một khối mềm, đau, bờ không rõ, hiện tượng di động hạn chế; sản dịch ra nhiều, có mùi hôi, cổ tử cung chậm đóng lại, tử cung co lại chậm. Tiến triển bệnh lý tùy theo từng trường hợp, bệnh có thể khỏi nếu được điều trị tích cực có đáp ứng hoặc trở thành viêm phúc mạc tiểu khung. Biện pháp xử trí điều trị là cho sản phụ nằm nghỉ ngơi, chườm đá lạnh và sử dụng loại kháng sinh thích hợp; trường hợp viêm nhiễm đã tạo thành túi mủ thì phải chọc túi mủ và dẫn lưu qua túi cùng âm đạo, nếu không đáp ứng phải cắt bỏ tử cung và sử dụng kháng sinh phù hợp với liều cao truyền bằng đường tĩnh mạch.

Viêm phúc mạc tiểu khung

Quá trình viêm phúc mạc tiểu khung không khu trú ở niêm mạc tử cung mà chúng phát triển vào tiểu khung để hình thành những giả mạc ở các tạng trong tiểu khung và gây dính với nhau. Phản ứng của phúc mạc sẽ sinh ra các túi dịch lẫn máu và mủ. Triệu chứng bệnh lý xảy ra trung bình khoảng từ 7 - 15 ngày sau khi sinh và có biểu hiện rầm rộ hơn viêm niêm mạc tử cung; nhiệt độ cơ thể tăng dần 38 - 400C, rét run, mệt mỏi, lưỡi bẩn; khám thấy có phản ứng thành bụng ở tiểu khung, bụng chướng nhẹ, ở phần trên của tiểu khung bụng mềm; khám âm đạo thấy cổ tử cung bé, tử cung to, di động và đau; các túi cùng âm đạo phù nề và đau; nếu khám âm đạo kết hợp với sờ nắn bụng thấy vùng tiểu khung có khối rắn, không di động, đau; xét nghiệm máu ghi nhận bạch cầu tăng, cần cấy sản dịch để tìm vi khuẩn gây bệnh và làm kháng sinh đồ. Khi điều trị tích cực và đáp ứng, bệnh tiến triển tốt và có thể khỏi những cũng có trường hợp phát triển thành viêm múc mạc toàn bộ. Biện pháp xử trí điều trị bằng cách cho sản phụ nghỉ ngơi, chườm đá lạnh, dùng kháng sinh phù hợp với liều cao; nếu có ápxe ở túi cùng Douglas phải chọc dò và dẫn lưu qua túi cùng âm đạo; trường hợp điều trị không đáp ứng phải cắt bỏ tử cung và sử dụng kháng sinh thích hợp với liều cao truyền qua đường tĩnh mạch.

Viêm phúc mạc toàn bộ

Viêm phúc mạc toàn bộ xảy ra thường do nguyên nhân sau mổ lấy thai không vô khuẩn, sau viêm niêm mạc tử cung và viêm tử cung toàn bộ không được điều trị tốt, sau khi thực hiện các thủ tục sản khoa bóc nhau và kiểm soát tử cung; đồng thời cũng có thể do vi khuẩn lan tràn từ bệnh lý ứ mủ ở vòi trứng gây viêm phúc mạc. Triệu chứng viêm phúc mạc toàn bộ biểu hiện sau khi sản phụ sinh khoảng từ 7 - 10 ngày hoặc sau khi mổ đẻ khoảng 3 - 4 ngày với dấu hiệu môi khô, lưỡi bẩn, mắt trũng; có hội chứng nhiễm độc, nhiễm trùng; đại tiện có khi phân lỏng và mùi rất hôi, có phản ứng thành bụng hoặc cảm ứng phúc mạc nhưng nhiều khi không rõ; chụp phim X-quang bụng không chuẩn bị thấy bụng có quai ruột giãn, có mức nước và mức hơi; xét nghiệm điện giải đồ ghi nhận các thành phần Ca++. Cl- giảm. Lưu ý cần chẩn đoán phân biệt với bệnh lý viêm phúc mạc tiểu khung, liệt ruột cơ năng. Xử trí điều trị bằng cách sử dụng kháng sinh toàn thân phù hợp, bồi phụ nước và các chất điện giải, thực hiện phẫu thuật cắt bỏ tử cung bán phần, tiến hành rửa và dẫn lưu ổ bụng.

Nhiễm trùng huyết

Nhiễm trùng huyết là hình thái bệnh lý nặng nhất trong nhiễm trùng hậu sản. Sản phụ sau khi sinh bị sốt cao liên tục, nhiệt độ dao động, kèm theo triệu chứng sốt cao là rét run, toàn thân mệt mỏi; có dấu hiệu nhiễm trùng, nhiễm độc như: môi khô, lưỡi bẩn, khó thở, da vàng, nước tiểu sẫm màu; nghe phổi có tiếng ran; có thể thấy các biểu hiện của các ổ nhiễm khuẩn thứ phát như ápxe cơ, ápxe gan, ápxe não; khám sản khoa thấy cổ tử cung hé mở, tử cung to và co hồi lại chậm, ấn tử cung đau, sản dịch có mùi hôi và bẩn lẫn máu mủ; cấy máu và cấy sản dịch nếu có kết quả dương tính là xác định chẩn đoán chắc chắn nhiễm trùng huyết, nếu kết quả âm tính cũng không thể loại trừ và chủ yếu vẫn căn cứ vào triệu chứng lâm sàng; thực hiện các xét nghiệm khác thấy hồng cầu giảm, bạch cầu tăng chủ yếu là tăng bạch cầu đa nhân trung tính, hematocrit giảm. Nhiễm trùng huyết có thể gây nên các biến chứng như suy thận cơ năng, viêm thận kẽ, ápxe phổi, viêm nội tâm mạc, ápxe não, viêm màng não... Tiên lượng bệnh tùy thuộc vào ổ nhiễm khuẩn thứ phát, việc điều trị có đáp ứng hiệu quả và kịp thời hay không. Điều trị nhiễm trùng huyết bằng cách sử dụng kháng sinh theo kết quả của kháng sinh đồ, khi chưa có kháng sinh đồ nên dùng loại kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng như nhóm cephalosporin, metronidazol, quinolon... kết hợp với biện pháp truyền máu, dùng thuốc trợ tim...; khi nhiệt độ cơ thể trở lại bình thường hoặc giảm xuống phải thực hiện phẫu thuật cắt bỏ tử cung bán phần để loại trừ ổ nhiễm khuẩn tiên phát.

Viêm tắc tĩnh mạch

Nguyên nhân gây viêm tắc tình mạch thường hay gặp ở những sản phụ mang thai con rạ có chuyển dạ kéo dài, lưu thông mạch máu ở hệ tĩnh mạch bị cản trở, có hiện tượng tăng sinh sợi huyết. Triệu chứng xuất hiện muộn khoảng 12 - 15 ngày sau khi sinh với biểu hiện sốt nhẹ, rét run, mạch nhanh; nếu viêm tắc tĩnh mạch chi dưới thì chân phù, màu trắng, ấn đau, gót chân không nhấc được khỏi giường. Nếu điều trị không kịp thời và đáp ứng có thể gây viêm tắc động mạch phổi, thận với nguy cơ dẫn đến tử vong. Trong quá trình điều trị, cần làm xét nghiệm thời gian máu chảy, máu đông; tiểu cầu, thời gian Quick và tỉ lệ prothrombin để theo dõi tiến triển của bệnh và sự đáp ứng điều trị; nên bất động chi bị viêm tắc tĩnh mạch ít nhất 3 tuần sau khi sản phụ hết sốt; sử dụng kháng sinh toàn thân kết hợp với corticoides sau vài ngày dùng kháng sinh; điều trị thuốc chống đông máu như heparin 25.000UI/kg cân nặng trong 24 giờ bằng đường tiêm tĩnh mạch hay nhỏ giọt tĩnh mạch hoặc dicoumarol 2 - 10 mg trong 24 giờ để kháng vitamin K có tác dụng chậm; theo dõi kết quả điều trị bằng xét nghiệm thời gian Howell, Quick.

Lời khuyên của thầy thuốcĐể đề phòng các bệnh lý nhiễm trùng hậu sản đối với sản phụ sau khi sinh đã được nêu ở trên, cần điều trị tích cực những ổ viêm nhiễm trong khi có thai như: viêm đường tiết niệu, viêm đường sinh dục...; lưu ý đề phòng nhiễm khuẩn ối và chuyển dạ kéo dài; trong khi sinh không để sót nhau, tuân thủ đúng các chỉ định kiểm soát tử cung, chế độ vô khuẩn và vệ sinh; sau khi sinh phải tránh tình trạng bế sản dịch, bảo đảm vệ sinh sạch sẽ, chăm sóc tầng sinh môn đúng quy định.

BS. NGUYỄN TR M ANH

Cách ăn uống sau sinh để mẹ đẹp, con khỏe

Để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho cả mẹ và con, bữa ăn của người mẹ phải đa dạng, số lượng thức ăn đầy đủ, cân đối và có giá trị dinh dưỡng (ưu tiên thức ăn có nhiều protein và canxi).

Chế độ chăm sóc và chế độ dinh dưỡng của bà mẹ để đảm bảo đủ sữa cho con bú và phục hồi nhanh sức khỏe sau sinh cần chú ý như sau:

Nghỉ ngơi tại giường

Sau khi sinh, người mẹ cần nghỉ ngơi tại giường trong 1 ngày đầu, những ngày sau có thể dậy và đi lại nhẹ nhàng và sau 1 tuần có thể làm việc nhẹ nhàng. Cho trẻ bú sớm trong vòng 30 phút sau khi sinh, bú sớm giúp sữa mau về, giúp co hồi tử cung, mẹ đỡ chảy máu. Giữ vệ sinh cá nhân sau sinh cũng rất quan trọng: vệ sinh vùng kín bằng nước sôi để nguội (ấm), lau người thay quần áo mỗi ngày, sau 1 tuần tắm bằng nước ấm cho sạch sẽ, thoải mái. Ăn đủ chất dinh dưỡng, không ăn kiêng khem, uống nhiều nước hoa quả để chống táo bón.

Về dinh dưỡng

Theo bảng nhu cầu khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng Quốc gia về năng lượng hàng ngày cho phụ nữ sau sinh cho con bú, năng lượng khẩu phần cần đạt là 2.550Kcal/ngày, vì bữa ăn đạt đủ năng lượng sẽ đảm bảo lượng sữa được tiết đủ cho con. Theo dân gian có một số thức ăn lợi sữa, đó là những thức ăn giàu dinh dưỡng, phù hợp cho phụ nữ sau sinh phục hồi sức khỏe và cung cấp chất dinh dưỡng để tạo sữa cho con bú như: cháo móng giò (móng giò hầm với gạo nếp đậu đen hay đậu xanh), ăn cơm nếp với thịt gà, canh đu đủ xanh nấu với thịt gà,... thực chất những món ăn này là cung cấp thêm năng lượng từ gạo và thêm đạm động vật đảm bảo bổ sung dinh dưỡng đủ cho bà mẹ tiết sữa.

Sau khi sinh, bà mẹ cần được nghỉ ngơi và chăm sóc đặc biệt để phục hồi sức khỏe và nuôi con bú.

Sau khi sinh, bà mẹ cần được nghỉ ngơi và chăm sóc đặc biệt để phục hồi sức khỏe và nuôi con bú.

Ngoài cơm (và các lương thực khác) ăn đủ no, bữa ăn cho bà mẹ cho con bú cần có thức ăn để bổ sung chất đạm và chất béo giúp cho việc tạo sữa và duy trì sức khỏe. Trước hết cần chú ý đến các nguồn chất đạm từ các thức ăn thực vật như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu khác và vừng, lạc. Đây là những thức ăn có giá rẻ hơn thịt nhưng có lượng đạm cao, lại có lượng chất béo nhiều giúp tăng năng lượng bữa ăn và giúp hấp thu tốt các nguồn vitamin tan trong dầu. Chất đạm động vật như: thịt các loại, trứng, sữa, cá, tôm, cua,... Theo nhu cầu lượng protein là 70-80g/ngày, protein động vật/protein tổng số ≥ 35%. Số lượng protein có thể ước tính là 100g thịt/cá cung cấp khoảng 20g protein, 100g đậu phụ cung cấp 10g protein. Chất béo cần cung cấp 25-30% năng lượng khẩu phần, nên dùng các chất béo không no có nhiều nối đôi có nhiều trong rau xanh, một số dầu thực (dầu cá, ô lưu,..), một số loại cá béo. Chất béo rất quan trọng cho sự phát triển trí não và thị lực của trẻ. Hàng ngày nhu cầu lipid của bà mẹ cho con bú là từ 55-65g/ngày, tỷ lệ lipid động vật/lipid tổng số là 60%.

dinh dưỡng sau sinh

Vitamin và chất khoáng

Vitamin và chất khoáng rất cần thiết với bà mẹ cho con bú. Ngoài việc bổ sung thông qua bữa ăn hàng ngày bằng các thực phẩm giàu vi chất như: canxi, vitamin D, sắt, kẽm... Canxi có nhiều trong tôm, cua, cá và sữa. Sắt có nhiều trong thịt, cá, trứng, các loại nhuyễn thể, trong ngũ cốc, đậu đỗ các loại và vừng lạc. Nguồn cung cấp kẽm tốt nhất là thịt, cá, hải sản. Các thức ăn thực vật cũng có kẽm nhưng hàm lượng thấp và hấp thu kém. Sữa, gan, trứng... là nguồn vitamin A động vật, dễ dàng được hấp thu và dự trữ trong cơ thể. Các loại rau xanh, nhất là rau ngót, rau dền, rau muống và các loại củ quả có màu vàng, màu đỏ như cà rốt, đu đủ, xoài, bí đỏ, là những thức ăn có nhiều caroten còn gọi là tiền vitamin A, vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A. Ăn đa dạng các loại thực phẩm, thay đổi món ăn thường xuyên, nhiều loại thức ăn, bữa ăn sẽ có đủ các vitamin và chất khoáng. Bà mẹ cho con bú cần uống 1 liều vitamin A 200.000UI trong vòng một tháng sau sinh để đảm bảo cung cấp vitamin A qua sữa.

Tóm lại, hàng ngày bà mẹ cho con bú cần lượng thực phẩm bao gồm: ngũ cốc 450-500g, trứng 40-50g, đậu và chế phẩm từ đậu 50-100g, cá và thịt từ 80-100g, rau từ 300-400g, hoa quả từ 100-200g, dầu mỡ 20g. Một ngày, nên ăn 3 bữa chính và 2 bữa phụ, hạn chế ăn đồ nướng và rán. Người mẹ cần uống nhiều nước từ 2,0-2,5 lít/ngày (8-10 cốc) để lượng sữa tiết ra nhiều hơn (trên 85g nước trong 100ml sữa mẹ) nên dùng sữa, nước trái cây, nước rau luộc, nước đun sôi để nguội. Trong thời gian nuôi con bú, hạn chế uống nước trà, nước ngọt có ga, rượu, cà phê, các loại gia vị (hành, tiêu, ớt, tỏi,...). Cần có chế độ nghỉ ngơi hợp lý, tránh lo lắng, buồn phiền, giận dữ, mất ngủ. Khi cho con bú, nếu phải dùng thuốc phải hỏi ý kiến của thầy thuốc, không được tự động dùng thuốc vì có thể nguy hại cho con và có thể làm cạn nguồn sữa.

ThS. BS. Nguyễn Văn Tiến (Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng - Viện Dinh dưỡng Quốc gia)